Ông Bí thư tỉnh uỷ và câu chuyện về cái chết của “cậu Vàng”

Thứ Ba, 28/08/2007, 17:00

Có thể nhiều người chưa biết tên ông, nhưng đối với tôi và những ai đã sống, chiến đấu trên chiến trường Quảng Đà trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và ở tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng những năm đầu giải phóng thì đều biết, đều yêu mến và kính trọng ông.

Ông là một người lãnh đạo không chỉ đầy bản lĩnh và sáng tạo, có tầm nhìn xa trông rộng mà còn là một người rất giàu lòng nhân ái. Giáo sư Vũ Khiêu đã viết tặng ông câu đối: "…Chất cộng sản ngời lên Nhân, Trí, Dũng,… Tính nhân văn tỏa sáng Nước, Trời, Mây". Ông là Ba Phước, tức Hồ Nghinh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng vinh dự khác. Ông mất ngày 15/3/2007, thọ 94 tuổi.

Vị tướng không có quân hàm

Năm 2003, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn sách: "Hồ Nghinh - một chiến sĩ, một con người". Cuốn sách gần 600 trang, gồm bài viết của nhiều nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, của các nhà văn, nhà báo từng hoạt động trên chiến trường Quảng Đà và của nhiều cán bộ, chiến sĩ ở Quảng Nam, Đà Nẵng kể về những kỷ niệm và dành tình cảm của mình cho ông Hồ Nghinh, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của ông.

Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đánh giá ông "là một vị lão thành cách mạng tâm huyết, có chủ kiến và trung thực"; là người "đánh giá cán bộ không qua nói hay, nói đúng đường lối, quan điểm của Đảng, mà vấn đề là thực sự làm có hiệu quả…, là dám làm, dám chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng"; là người "đã góp phần làm rõ những nguyên nhân dẫn đến trì trệ trong xây dựng kinh tế do cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp ngự trị quá lâu, cần phải đổi mới toàn diện". Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng coi ông "là một sĩ phu xứ Quảng, theo nghĩa chiều sâu của cách gọi này: không có gì khuất phục nổi cái tiết tháo của một con người biết sống cho ra sống"...

Ông Hồ Nghinh sinh năm 1913, quê ở xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là bạn học cùng thời với Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Trường Quốc học Huế những năm 1925-1926. Ông tham gia cách mạng rất sớm, bị đuổi học và bị bắt, bị tù từ năm 17 tuổi. Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng, và từ đó luôn đứng ở mũi nhọn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trên quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng và ở chiến trường Khu V. Ông đã có 19 năm làm Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà và Bí thư Tỉnh  ủy Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông là một người nổi tiếng sống thanh bạch, giản dị.

Ông là con thứ năm trong một gia đình mười người con, trong đó ông và hai người em là Hồ Thấu và Hồ Liên đều là Tỉnh ủy viên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Hồ Thấu còn là một nhà thơ có nhiều sáng tác đặc sắc đã được nhiều cán bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chép vào sổ tay, tới nay đã qua hơn nửa thế kỷ nhiều người vẫn còn thuộc.

Hồ Thấu có hai câu thơ viết trước lúc mất năm 1949 tại chiến khu mà nhiều người thuộc: "Chiến trường ai khóc chia phôi/ Khải hoàn ai nhắc tới người hôm qua". Nhà thơ lão thành Khương Hữu Dụng cho rằng "chỉ với một bài, thậm chí với một câu thơ hay như thế cũng đủ là một nhà thơ, một sự nghiệp". Người em trai út của ông Hồ Nghinh là Hồ Liên, chính là nhà ngoại giao Hoàng Bích Sơn, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Đối ngoại Trung ương.

Ông Hồ Nghinh chưa bao giờ được phong hàm cấp tướng của QĐND Việt Nam, nhưng trong những năm trước giải phóng, không chỉ một lần khi đưa tin chiến sự tại Quảng Đà, báo chí xuất bản ở Sài Gòn đã gọi ông là "Thiếu tướng Việt Cộng Hồ Nghinh, tức Ba Phước, người chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Cộng sản tại tỉnh Quảng Nam". Chắc không có nhiều người được như ông, một vị Tướng không có quân hàm! Nhưng điều đọng lại trong lòng những người đã biết ông không phải chỉ là ở những chức vụ rất cao ông đã đảm nhận mà là ở những việc làm hết mình vì người dân đất Quảng, là ở tình người của ông, là ở cốt cách và khả năng thu phục nhân tâm của ông.

Đọc thơ Đường trong tiếng đại bác

Tôi biết ông Hồ Nghinh từ năm 1971 khi tôi là phóng viên của Thông tấn xã Giải phóng miền Trung Trung Bộ (tức Khu V cũ) tại Đặc khu Quảng Đà. Khi ấy ông Hồ Nghinh là Bí thư Đặc khu ủy. Lần đầu tiên trước khi đến gặp ông Hồ Nghinh, tôi không khỏi có chút mặc cảm và phần nào thiếu tự tin. Bởi vì khi ấy, tôi mới ngoài 20 tuổi, là một phóng viên trẻ mới vào chiến trường, một đảng viên mới được kết nạp, còn ông, tuổi đúng bằng tuổi mẹ tôi, lại là một vị lãnh đạo cao cấp nổi tiếng, Bí thư Đặc Khu ủy, một người đã từng đậu tú tài Tây, thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Hán từ khi tôi chưa ra đời...

Trong một hang đá ở núi Hòn Tàu, căn cứ của Đặc Khu ủy Quảng Đà, ông Hồ Nghinh tiếp tôi với nụ cười hiền hậu và giọng nói ân cần, nhỏ nhẹ. Ông hỏi thăm tôi mọi chuyện, từ cuộc sống trên chiến khu đến chuyện riêng tư trước khi vào chiến trường, rồi vui vẻ trả lời từng câu hỏi của tôi về tình hình Quảng Đà. Sau buổi làm việc, ông mời tôi ở lại ăn cơm cùng ông.

Biết tôi đang tuổi thanh niên, lại vừa trải qua những ngày đói quay đói quắt trên căn cứ Khu ủy V, mỗi ngày tiêu chuẩn ăn của một người chưa tới nửa lon gạo trộn sắn, nên suốt bữa ông chỉ ăn gọi là, cố ý dành cơm và thức ăn cho tôi. Buổi tối hôm đó, ông giữ tôi lại. Ông kể cho tôi nhiều chuyện cảm động của người dân Quảng Đà đối với Bác Hồ, đối với cách mạng, về những tấm gương chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ bộ đội, Công an và biệt động TP Đà Nẵng.--PageBreak--

Và thú vị thay, đêm ấy, biết tôi có học thơ Đường trong những năm còn ngồi trên ghế nhà trường đại học, giữa tiếng đại bác từ các cứ điểm của địch ở An Hoà, Đức Dục, Bồ Bồ bắn vào khu căn cứ Đặc khu uỷ Quảng Đà và trong tiếng máy bay giặc Mỹ thỉnh thoảng lại gầm rú, trút bom xuống các khu vực xung quanh, ông đọc cho tôi nghe lại mấy câu thơ trong bài “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế, một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời nhà Đường:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

(Trăng tà chiếc quạ kêu sương/ Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ/ Thuyền ai đậu bến Cô Tô/ Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn - Tản Đà dịch).

Cũng là nửa đêm, nhà thơ Trương Kế nghe tiếng chuông từ chùa Hàn Sơn vọng lại, còn ông Hồ Nghinh và tôi đọc thơ Trương Kế lại nghe tiếng đại bác cầm canh!

Từ sau lần ấy, mỗi khi tôi được cử ra Quảng Đà, ông đều dành thời gian tiếp tôi, nhiều lần giữ tôi lại cả ngày. Ông dặn Văn phòng Đặc Khu ủy, tất cả các anh chị em nhà báo, nhà văn từ Khu ủy V về công tác tại Quảng Đà đều là khách của ông và của Đặc Khu ủy; phải đối xử với anh chị em vừa là người trong nhà vừa là khách quý.

Cái chết của "cậu Vàng"

Trong tập sách nói trên, nhà văn Nguyên Ngọc kể lại câu chuyện về cách đối xử của ông Hồ Nghinh với một kẻ thù của cách mạng, một nhân vật chống Cộng khét tiếng ở tỉnh Quảng Nam. Lần ấy, Lê Phước Lý, thành viên của Ban lãnh đạo cấp tỉnh của tổ chức Quốc dân Đảng phản động, từng gây nhiều tội ác đẫm máu, lại bị ta bắt. Bị bắt lần thứ hai, Lý nghĩ chắc lần này không thoát chết nên tỏ ra là người có "tiết tháo", rất ngoan cố, ăn nói ngạo ngược. Thái độ của hắn khiến nhiều chiến sĩ căm giận, muốn giết.

Ông Hồ Nghinh biết chuyện, ngăn lại. Ông trực tiếp gặp Lý, vẫn giữ giọng nhẹ nhàng, ôn tồn vạch rõ tội ác của hắn đối với nhân dân, đối với cách mạng, rồi thật bất ngờ ông quyết định thả Lý. Lý kinh ngạc trước thái độ và quyết định của ông, đang hung hăng, nghênh nghênh ngang ngang, bỗng sụp xuống khóc, lạy tạ. Nhiều đồng chí biết chuyện này cũng ngạc nhiên không kém, thậm chí có người tỏ ra không đồng tình.

Ông Hồ Nghinh ôn tồn giải thích: "Đúng là tội ác của Lý tày đình, nhưng y đã già rồi. Hãy rộng lượng cho y được chết bằng cái chết già đang đến, cái chết không để lại vết hằn trong lòng con cháu y".

Còn nhà văn Nguyễn Khắc Phục, người từng có nhiều năm lăn lộn trên chiến trường Quảng Đà đã kể cho tôi nghe câu chuyện về con chó vàng, "cậu Vàng" của ông Hồ Nghinh. Sau một trận càn quét, đốt phá của địch vào cơ quan Đặc Khu ủy Quảng Đà, lúc đó đóng trong nhà dân tại Gò Nổi, Điện Bàn, ông Hồ Nghinh và một số anh em bảo vệ trở lại nơi ở cũ, bắt gặp một con chó vàng từ đâu đến, cứ quanh quẩn bên chân ông. Ông dành một phần cơm của mình cho con chó và từ đó con chó trở thành con vật thân thiết theo gót ông trên mọi nẻo đường.

Ông gọi con chó là "cậu Vàng", không bao giờ để cơm dưới đất mà dành riêng một chiếc bát sắt, đến bữa xẻ một phần cơm của mình cho "Cậu" ăn. Còn "cậu Vàng" bao giờ cũng vậy, đợi ông ăn xong mới ăn phần cơm của mình. Nhiều hôm "cậu Vàng" ra suối thò đuôi xuống nước nhử cá, bắt được con nào "Cậu" cũng cắn ngang miệng mang về, ngoe nguẩy cái đuôi rồi nhả con cá xuống bên chân ông Hồ Nghinh.

Ông Hồ Nghinh dặn mấy anh em cần vụ, bảo vệ đến bữa nhớ để phần đầu cá cho "Cậu". Tối tối, "cậu Vàng" phủ phục sát bên võng ông nằm, đón nhận bàn tay vỗ về của ông. Một vài chiến sĩ bảo vệ không thật có thiện cảm với "cậu Vàng" và hình như ông Hồ Nghinh còn đọc được trong mắt họ ý định hoá kiếp "cậu Vàng" thành một bữa liên hoan với lý do tiếng sủa của "Cậu" có thể làm lộ bí mật địa điểm đóng quân của Đặc Khu ủy. Có lần một chiến sĩ nói xa xôi về điều này liền bị ông Hồ Nghinh nghiêm sắc mặt, gạt đi.

Cho tới một hôm, ông Hồ Nghinh quyết định rời căn cứ, trực tiếp ra Bộ chỉ huy tiền phương để chỉ đạo chiến dịch chống lấn chiếm của địch sau Hiệp định Paris về Việt Nam. Ông vỗ về "cậu Vàng", để "Cậu" ở lại căn cứ, không cho đi theo. "Cậu Vàng" như thấu hiểu được ý định của ông, nên nhất định không chịu, cứ quấn lấy chân ông không rời. Cuối cùng ông đành phải để "Cậu" theo. Đêm hôm đó, trước khi vượt một đoạn đường nguy hiểm, ông cứ bị "cậu Vàng" cắn gấu áo giữ lại, không thể nào đi được. Khi ông dừng lại thì "cậu Vàng" lao vút lên phía trước. Chỉ một lát sau, một tiếng mìn cờ-lây-mo nổ vang, xé cả màn đêm. Tiếp sau là hàng tràng đạn đại liên nổ liên hồi. Ông Hồ Nghinh và đoàn cán bộ thoát chết trong gang tấc.

Nhà văn Nguyễn Khắc Phục kể với tôi rằng, chính ông Hồ Nghinh đã rớt nước mắt khi tự tay mình chôn "cậu Vàng" trước khi đi tiếp vào chiến dịch.

Biết tôi có ý định viết một bài báo để thay những nén nhang từ xa tưởng nhớ ông Hồ Nghinh đã qua đời, nhà văn Nguyễn Khắc Phục nói tôi kể lại câu chuyện này. Nguyễn Khắc Phục dặn tôi trong bài nhớ viết một câu về ông Hồ Nghinh: "Phải là người như thế nào mới khiến trời đất động lòng để "cậu Vàng" cứu mạng mình như thế!"

Dương Đức Quảng
.
.