Nhà văn Tô Hoài: Không nên sống êm đềm quá...

Thứ Hai, 04/08/2014, 15:30
Vẫn biết khi trưởng lão ra đi ở tuổi 95 thì theo phong tục cha ông, đám tang đó sẽ là “hồng tang”. Thế nhưng, khi hay tin nhà văn Tô Hoài tạ thế ngày 6/7 vừa qua, có lẽ không ít người từng yêu “Dế mèn phiêu lưu ký” cũng như tôi vẫn cảm thấy trong lòng dâng đầy niềm thương tiếc...

Đã từ không chỉ một năm nay hình như Tô Hoài không còn viết thêm tác phẩm gì đặc biệt nữa. Tuy nhiên, những gì ông đã viết vẫn đang tiếp tục hành trình chinh phục độc giả. Dường như trong những cuốn sách đó, đã định hình tới độ không thể đổi thay thêm bớt được gì nữa, vẫn đang còn ẩn chứa những thông điệp khác mà khi nhà văn còn sống, có thể chúng ta đã không nhận ra hết được...

Đọc sách của Tô Hoài và may mắn có một số lần được trò chuyện cùng ông, tôi đã nhận ra ở nhà văn lão thực này một phẩm chất không dễ có trong con người Việt: ông rất biết sống hòa thuận với thời điểm hiện hữu  mà vẫn giữ được những ý kiến, góc nhìn riêng không đại trà, không a dua... Và ông đã cũng rất biết khi nào thì cần đưa ra thông điệp gì để hữu ích cho cái chung mà không làm tổn hại cái riêng... Ông không quan trọng hóa bất cứ sự việc gì nhưng lại càng không coi thường bất cứ chi tiết nào của cuộc sống... Còn nhớ, trong  một lần trò chuyện với chúng tôi, ông đã thẳng thắn đánh giá về những sự được mất đã gặp trong cuộc đời mình: “Thì tôi cũng chỉ cò con thôi...”.

Bây giờ, khi ông không còn nữa, đọc lại những gì ông viết, đã nói, chúng ta sẽ hiểu ra rằng, thực ra sự nghiệp văn học và đời sống của ông không hề “cò con” chút nào. Ông để lại cho hậu thế quá nhiều câu chữ lấp lánh và những bài học nhân sinh quý báu...

Như một ném tâm nhang thắp lên trước ngày cử hành tang lễ nhà văn Tô Hoài, xin được trích một phần bài trò chuyện với ông, được thực hiện cách đây dễ cả một thập niên... Khi ấy, dù ở tuổi bát thập, nhà văn Tô Hoài vẫn rất minh mẫn và hóm hỉnh...

- Hồng Thanh Quang: Trong làng văn, ông cũng như ông Kim Lân là những nhà văn rất hạnh phúc, ít nhất là bởi vì sống qua thời đại của mình, sống đến thế kỷ mới trong khi rất nhiều người cùng thời đã trở thành “những người muôn năm cũ”. Trong những cuốn hồi ký rất được ưa chuộng, rất được nhiều người tìm đọc, ông đã kể không ít điều về nhiều người cùng thời với mình, mà trong đó có những điều mà không hẳn các nhà văn ấy đã thích được bộc lộ ra. Ông nghĩ như thế nào về chuyện này? Ông có nghĩ rằng, đã đến lúc chúng ta nên nói tất cả mọi điều về nhau, mọi sự thật đều cần được công khai “một miếng giữa làng”?  Như thế vẫn hơn là giấu giếm đi những góc cạnh nào đấy của cuộc sống?

- Nhà văn Tô Hoài: Tôi thì tôi thấy như thế này, chả có gì phải giấu giếm cả. Chắc là tôi còn viết nữa. Viết thì người ta không thích, mà mình cũng tự hiểu rằng không phải mọi điều mình viết ra đều đúng cả, nhưng mà mình viết theo tầm biết của mình, theo những gì mình biết, theo cách nghĩ của mình. Có nhiều cái nên viết hơn nữa…

- Sự thật hiện ra trước mắt lớp hậu sinh, nhiều khi là nhiều người nói theo cách khác nhau của họ với sự trung thực, chứ không phải mình làm cho mọi chuyện trở nên tròn trịa hơn hay méo mó đi chỉ vì một, hai, ba, bốn lí do nào đấy... nghe ra thì có vẻ hợp lý nhưng thực chất là không hẳn như thế?

- Nhiều khi là những chuyện lặt vặt, nhưng thật ra là rất thích, ví dụ như chuyện Nam Cao trước khi về vùng tề. Chuyện vùng tề mà Nam Cao bị mất là như thế, nhưng bên trong nó có những cái nông nỗi như thế này: đúng là như Kim Lân đã viết về Nam Cao, ông viết về cái làng ấy, song viết xoàng quá thì chính Nam Cao cũng xé đi, đấy là ông ấy bận tâm về cái chuyện đấy. Thật tình mà nói lúc Nam Cao đi cùng Nguyễn Huy Tưởng về khu 4 chứ không phải đi vùng tề, nhưng mà trước lúc ấy thì Nam Cao được báo Cứu quốc gọi lên Việt Bắc cùng làm với tôi thì công việc cũng yếu yếu, rồi theo vợ con về vùng tề, nói chung là…

Ảnh: Thành Đạt.

- Không ở chiến khu nữa vì khổ quá?

- Không, ở khu 3. Nam Cao không ở Điện Biên Phủ được nữa nên phải về vùng tề. Nam Cao đi cùng anh Tưởng qua khu 3, về khu 4. Nghe báo cáo hẳn hoi là khu 3, cái vùng cơ sở an toàn có đại đoàn của ông Văn Tiến Dũng, đại đoàn mạnh lắm (Đại đoàn 320). Nguyên tắc là đi nông nghiệp, nhưng qua làng Đại Hoàng thì ông ấy quyết định rẽ vào. Từ cái vùng Ninh Bình đấy qua Đại Hoàng thì chỉ có một đêm thôi. Thế còn cái đám nông nghiệp thì đi nông nghiệp. Không may đấy là một cánh đồng chiêm, nếu may thì đi qua 1 đêm là xong, nhưng đến chập tối thì du kích gác rút đi, Tây thì chỉ có 1 bốt đi tuần, nó đến thì nghe nói là mình đi 7 thuyền, Nam Cao đi trên chiếc thuyền đầu. Tôi đã đi với Nam Cao một lần ở đường số 4 trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, anh này hết sức cẩn thận, và nhát nữa, nhưng mà tất cả những lúc cần thiết thì ông ấy đi đầu. Có những lúc đi theo đường dây mà liên lạc dẫn qua thì không ai muốn đi đầu, đi đầu, nhỡ cái... nhưng lão lù lù  dẫn  đầu (cười). Thì có 3 thuyền bị bắt, 4 thuyền chạy được. Khi đi thì nếu ông ấy có lấy giấy trong người là cán bộ y tế hay bình dân học vụ, cán bộ thì địch thường cũng không sát hại vì có người biết tiếng Pháp. Đêm hôm ấy tất cả 8-9 người ở thuyền đầu ô hợp, có những người định trốn thì nó đem bắn cả cho tiện. Nếu không có thì cái bốt ấy theo nguyên tắc là nó giao cho đồn địa phương chứ không xử lý gì... Cái chuyện chết cũng rất là tình cờ...

- Hồi còn bé tôi đi học, nghe phân tích truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao thì các thầy giáo, kể cả các thầy là học trò của ông Vũ Bằng ngày xưa, và con cháu thì hết sức phê phán thái độ của ông Hoàng trong đấy, tức là Vũ Bằng. Và sau này mới lại nghe là có người nói rằng, Vũ Bằng hóa ra là điệp viên của quân đội. Một khi biết cái tin ấy thì thái độ người đọc của chúng ta đối với nhân vật Hoàng và Vũ Bằng là khác hẳn. Như vậy, khi diễn giải hoặc khi nhà văn viết, đôi khi là không có ý như thế, và ý được truyền ra lại do một số người diễn giải sai, hay thực sự là Nam Cao hồi ấy đã nhìn Vũ Bằng như thế, hay thực sự Vũ Bằng là điệp viên nhưng vẫn là người xấu chăng? Ông là người chứng kiến, ông nói như thế nào về Vũ Bằng, về mối quan hệ của Nam Cao và Vũ Bằng, về quan niệm của Nam Cao thể hiện trong truyện ngắn “Đôi mắt”?

- Trước hết thì tôi thấy tất cả những chuyện Vũ Bằng sau này thành Vũ Bằng phản động là chuyện của cả nền văn học của mình lúc ấy là có khuynh hướng theo Tàu, tiêu cực tích cực rõ ràng. Chứ còn những việc xảy ra như Nam Cao viết rằng Vũ Bằng nói về nông dân như thế thì rất bình thường lúc bấy giờ đối với một người tiểu tư sản ở thành phố nói về nông dân ở thôn quê trong kháng chiến chống Pháp. Chứ còn các vấn đề của anh Nam Cao nói có khi cụ không biết. Ông Vũ Bằng mà phân tích ra là như thế này: với sự hiểu biết sau cùng của mình, ông ấy là cơ sở của tình báo. Bảo ông ấy là tình báo là không đúng. Là cơ sở của tình báo thì ông ấy làm gì, không làm gì, ông Nam Cao không thể biết. Thứ hai nữa là con người của Vũ Bằng cực kỳ phức tạp. Viết “đểu”, chơi bời cũng “đểu” lắm (cười). Không chơi với ai. Trong cái thời trước cách mạng ấy, tôi với Nam Cao là hai người chịu ảnh hưởng của Vũ Bằng rất nhiều, ảnh hưởng về phong cách ấy, đặc biệt trong cái Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. Tôi rất quý! Nhưng mà ông ấy cũng là người chơi rất ghê! Phải nói rằng đời ông ấy cứ chuyên viết văn thì chắc là khá hơn, nhưng ông ấy làm báo nhiều quá, ông ấy làm giàu nữa.

- Có khát vọng làm giàu?

- Ông ấy làm giàu thật. Ông ấy là con một nhà nho có hàng quán làm ăn kiểu như tư sản ở Hàng Gai. Ông ấy học Albert Sarraut cùng với cụ Phạm Văn Đồng và cả Trần Lệ Xuân ấy. Sau rồi, ngay từ cái lúc còn thanh niên, ông ấy đã lấy bà Quỳ... Lúc chúng tôi lên chơi, bà ấy còn xoa phấn lên tay.

- Bà ấy hơn ông Vũ Bằng bao nhiêu tuổi?

- Chắc là hơn nhiều lắm. Đại khái là bà ấy chơi họ với mẹ của ông Bằng, rồi ông lấy bà ấy.

- Theo bác thì ông ấy lấy vì tình yêu hay vì cái gì khác?

- Chắc là vì tình yêu thôi. Nhưng mà Vũ Bằng là người cũng mê gái kinh khủng! Chính Vũ Bằng kể cho tôi nghe... (cười). Ghê lắm! Tình yêu thì chắc là đúng... Khi ông ấy vào Nam ấy, cái bà vợ mà ông ấy lấy trong đó, là ô-sin. Lấy nhau rồi con cái cũng nheo nhóc lắm... Vũ Bằng là người như thế! Ông ấy viết Thương nhớ mười hai nhưng lúc nào nhớ thì nhớ, còn lúc nào không thì vẫn vui thú với đời...

- Tâm lý đó cũng dễ hiểu thôi, nó là những cõi khác nhau...

- Cho nên, đối với ông Vũ Bằng thì ngày ấy chúng tôi chỉ biết như thế thôi. Mà Nam Cao sau này viết Đôi mắt thì chính cái chuyện ấy Nam Cao kể cho tôi rất kỹ lần đến chơi nhà Vũ Bằng. Cái đêm Vũ Bằng và vợ đọc Tam Quốc cho Nam Cao nghe thì Vũ Bằng thích nhân vật Tào Tháo nhất, thích lắm. Và coi đó là đỉnh cao trí tuệ để so sánh với người đời sau (cười). Chính Nam Cao đặt tên cái truyện ấy là Tiên sư thằng Tào Tháo (cười). Vì cậu ấy sợ liên tưởng quá... (cười).

- Xem ra trước năm 45, những nhà văn như ông, như Nam Cao, như Vũ Bằng, đã không sợ ai cả. Tại sao trong vài năm, bằng cách nào mà tự nhiên các nhà văn lại có nhiều nỗi sợ như thế? Vậy bí quyết nào, phương thức nào mà trong vòng chỉ vài ba năm những nhà văn kiểu “bán giời không văn tự” như các ông lại trở thành những người hết sức ngoan đạo, chỉn chu, mực thước, ít ra là về mặt hình thức?

- Tôi cho rằng chỉn chu, mực thước... cũng là đúng con người như thế.

- Vấn đề của nghệ thuật là phải bước qua nỗi sợ để tiến tới vượt qua mọi giới hạn. Bọn hậu sinh như chúng tôi vẫn ngạc nhiên rằng tại sao chỉ trong vòng vài năm lại biến cải được những con người như thế, đấy là vì lý tưởng hay có một phương thức huyền diệu nào chăng?

- Thì chúng ta phải sống trong một cơ chế hà khắc, khắc nghiệt. Lúc bấy giờ đối với Pháp hay xã hội cũ thì nó một là lăng nhăng, hai là tuyệt đối. Bây giờ cái đó không còn nữa, bây giờ phân thứ bậc, không phải như trước nữa.

- Và các nhà văn với trí thông minh thiên bẩm hiểu rất nhanh điều đó và thích ứng rất nhanh?

- Thích ứng rất nhanh và một số cũng ba lăng nhăng rất nhanh. Đôi khi tỏ ra nghiêm ngắn quá đà cũng là để xóa đi những cái từng hư hỏng quá đà...

- Có ý kiến cho rằng trí thức của ngày xưa dám bỏ tất cả vì cái chữ của mình, lý tưởng của mình?

- Theo tôi thì cái cũ của những ông nhà văn ấy cũng chả có gì, các ông ấy cũng nghèo hèn.

- Tức là người đã nghèo hèn thì ở đời nào cũng nghèo hèn, người có nhân cách thì thời nào cũng có nhân cách?

- Chế độ ta rõ ràng, cấp chức cũng rõ ràng!

- Trong một người thì có nhiều nỗi sợ, nhưng hình như trong các nhà văn thì nỗi sợ nhiều hơn. Chừng ấy năm ông đã sống qua bao nhiêu thời kỳ, bao nhiêu biến động, ông có nhiều nỗi sợ mới không, và có nỗi sợ nào đằng đẵng theo ông suốt hàng chục năm trời mà không thay đổi không?

- Nếu nói về tôi thì tôi không có nỗi sợ bằng nhiều người khác. Tôi không phải là nhận đường, mà tôi biết đường từ lâu rồi, tôi tự đi lấy... Tôi thích như thế, và cho đến bây giờ vẫn thế (cười). 

- Có ý kiến như thế này và có thể là không đúng: Nhà văn Tô Hoài rất khôn ngoan trong cuộc đời mình, cuộc đời như cuộc chơi của ông và ông biết cần đi nước nào để bao giờ đi ra khỏi nước mà vẫn khô, bao giờ cũng vừa an toàn mà vừa đạt được điều ông muốn trong bất cứ tình huống nào. Bởi vì ông đã biết rõ con đường của ông cần phải đi, việc ông cần phải làm?

- Có thể cũng đúng một phần, vì muốn làm gì thì làm tôi vẫn cứ muốn làm việc của tôi đã, ví dụ như là viết. Từ trước viết thế nào thì bây giờ tôi vẫn viết như thế. Cái hồi tôi bị phê bình, điển hình là quyển Mười năm hồi năm 1957 - 1958, trong đó tôi viết về phong trào ở Hà Tây, bản thân tôi cũng phát triển từ phong trào ấy, tôi viết về nhân vật ở cơ sở, trong đó có những phụ nữ rất hăng hái nhưng mà lại dâm đãng. Người có tốt có xấu, nhưng người ta không công nhận. Lại còn đưa cả tỉnh uỷ Hà Đông ra 51 Trần Hưng Đạo phê bình mình, bảo nói như thế là nói xấu Hà Đông… Nhưng bản chất vấn đề đâu phải là như thế. Tôi viết như tôi nhận thức thôi. Ngày xưa tôi viết thế bây giờ tôi vẫn viết thế. Và lúc nào tôi cũng làm việc...

- Nhiều người nhận xét là đối với nhà văn Tô Hoài, không có gì cao hơn, thánh thiện hơn là văn chương. Cái chuyện quan chức ông dính vào là vì ông muốn đùa với cuộc đời này. Ngay trong các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài để lại người ta cũng thấy điều đó. Ông có nghĩ rằng quyền chức là một trò đùa độc ác đối với những người cứ tưởng rằng đó là điều quan trọng nhất, ghê gớm nhất không?

- Thực ra mình cũng không nghĩ nhiều lắm, nhưng mà mình thực như thế. Mình chỉ muốn tất cả mọi việc mình làm, người ta cho mình làm để mình vẫn viết được, thế thôi! Chứ còn trong 30 năm tôi phò tá ông Thi thì cái tính là tôi biết. Tôi là người của công việc, Bí thư Đảng uỷ triền miên, Trưởng ban khu phố, Chủ tịch phường... triền miên, 7 năm làm Chủ tịch phường (cười). Tất cả những cái ấy là mây bay gió thổi, tôi để cho hết.

- Chủ tịch phường khi ấy chắc khác chủ tịch phường bây giờ lắm nhỉ?

- Ký tợn lắm, nhưng không có phong bì như bây giờ (cười).

- Cái tinh thần của Hội Nhà văn lúc ông làm Tổng Thư ký có khác gì, khác như thế nào với cái tinh thần, sứ mệnh của Hội Nhà văn thời nay không?

- Khác nhiều, khác nhiều chứ! Khác ở cái chỗ bấy giờ trên nói dưới nghe ghê lắm. Tôi nói cái khác nhiều là bây giờ chả có gì nhưng hình như ai cũng sợ. Cái gì không làm được thì cũng không ai dám nói khác đi.

Ảnh: Việt Đông.

- Nghĩa là sự chân thành, sự rung cảm của nhà văn bây giờ đã sa sút rất nhiều?

- Sa sút, sa sút nhiều. Bao nhiêu chuyện như chỉnh đốn tổ chức, phong trào này nọ, bây giờ vẫn u u minh minh, không rõ gì cả.... Việc trắng đen phải nói rõ chứ...

- Đối với người viết như ông thì Hội Nhà văn có ý nghĩa gì không?

- Thỉnh thoảng các ông ấy cho tôi một ít tiền...

- Tức là nhà văn phải viết tác phẩm của mình chứ không phải tìm vào Hội Nhà văn để kiếm một chức vụ hay lợi lộc nào đấy cho mình?

- Tôi thấy những ai như thế thì bị tha hoá rồi.

- Trong thế hệ của ông, ông đã có điều kiện nhìn gần những nhà văn, nhà thơ hiện nay đã trở thành những tên tuổi,  ông có thấy rằng đôi khi giữa những tác phẩm và nhân cách nhà văn có khoảng cách nào đó không? Và những lệch lạc ấy là do áp lực hay do điều kiện khách quan, và vì vậy thế hệ sau phải nên kính trọng hay nên thương cảm những nhà văn đi trước?

- Tôi thấy mỗi người mỗi khác, thí dụ anh Đồ Phồn khác, anh Thế Lữ khác, ông Nguyễn Tuân khác... Trong mỗi người một khác thì tôi chỉ chơi với một số người thôi.

- Những người ông chơi là ai ạ?

- Trước kia là Nguyễn Tuân, sau là ông Nguyễn Văn Bổng, thế thôi.

- Nhưng mà phải thấy như thế này, Tô Hoài viết mỗi ngày một hay hơn, triết lý hơn, trong khi đó Huy Cận lại ngày một đơn giản hơn, ông nghĩ điều này là như thế nào?

- Tôi cho rằng là ông ấy già và mắc bệnh của tuổi già thôi. Cũng như đọc Thượng đế cười của Nguyễn Khải tôi thấy ông ấy cũng già rồi, cũng lẩm cẩm... Ví dụ như ông Huy Cận trả lời phỏng vấn Tạp chí Văn học, nói rằng: “Chưa bao giờ tôi viết sung sức như bây giờ”, lẩm cẩm rồi chứ còn gì nữa (cười). Còn ông Nguyễn Khải đi tìm các cụ 5 đời nhà ông ấy, từ ông tổ Nguyễn Bặc ở Thanh Hoá, tìm cho kỳ được rồi ông ấy viết Thượng đế cười, rồi ông sáng tạo ra nhân vật vợ ông ấy hay ghen ấy...

- Là người đã sống với các nhà văn nổi tiếng, ông thấy ai là người ít thay đổi nhất trong văn nghiệp của mình, bất luận tình huống bên ngoài như thế nào thì ai vẫn giữ được khí chất của họ?

- Có lẽ chỉ có Nguyên Hồng.

- Cái chất của Nguyên Hồng là gì?

- Ông ấy chỉ là như thế thôi. Trước Cách mạng cũng thế, ông ấy gần như chẳng để ý gì đến xung quanh cả. Cho nên tôi nói đến ông ấy trong quyển Bước ngoặt là: Ông lúc nào cũng đeo, cũng vác cái tha ma trên lưng, ông ấy thích cầm bản thảo lắm. Thứ hai là tôi không thích làm cái chuyện đó nên ông ấy chửi tôi ghê lắm. Ý nghĩ của ông ấy là ý nghĩ từ bao giờ ấy, sẵn có. Cũng như cái hồi làm báo Văn mà ông ấy sai lầm, ông ấy giật chồng báo Văn ra như thế này, ông ấy nói một hồi, ông bảo tôi bỏ công bỏ việc ở cơ quan, bao nhiêu việc tôi bỏ hết về để đi làm báo Văn thì tôi có thể sai lầm thế nào được. Ông ấy khóc hu hu lên! Đã mất công như thế rồi thì không thể sai lầm được, thế là người ta tha.

- Còn ông thì có phải là người thay đổi nhiều với thời cuộc không, hay là như lúc đầu ông nói cái thay đổi của ông chỉ là hình thức bên ngoài, còn bản chất bên trong là không bao giờ thay đổi?

- Chắc thế! Mình thì làm thế nào để cho mình dễ chịu hơn, không như Nguyên Hồng thì bỏ lên Nhã Nam sống...

- Theo ông thì người viết ít như ông Kim Lân thì có thể được coi là thành công hơn, trong khi ông Bùi Hiển lại viết nhiều. Vậy thì một người như thế nào thì được coi là thành công trong chế độ mới?

- Có lẽ thế này, không cứ là viết ít hay viết nhiều. Tên gọi là nhà văn thì có một, hai quyển được, không cứ là viết nhiều. Còn Kim Lân viết ít là do sau này ông ý lười, ông ý mất thói quen viết.

- Đơn giản là mất thói quen viết thôi chứ không phải là một sự chủ định tạo dáng, đúng không ạ?

- Không, không. Mất thói quen viết thôi chứ còn với những tác phẩm của Kim Lân như thế có thể là thành công, với Bùi Hiển một hai truyện như thế là thành công. Ông Bùi Hiển thì như là công chức, hiền và chăm chỉ. Một lần thì ông Hiển đưa cho tôi xem 1 truyện ngắn, ông ấy nói, chúng nó bảo tôi đ. biết viết về tình yêu, đây ông xem như thế nào. Thì ông ấy tả nhân vật nữ kỹ lắm, nào là tóc, tai, thì mình mới bảo đây là bạn gái của ông chứ còn gì nữa (cười).

- Xuân Diệu đã từng viết rằng: “Nhân loại xem gần vẫn xấu xa”, câu này có thể áp dụng vào đại đa số các nhân vật trong thế hệ nhà văn các ông không? Văn của họ rất ấn tượng, nhưng khi tiếp xúc với họ thì liệu độc giả bình thường có bị thất vọng hay không? Bởi vì ở một cơ chế khác thì lúc nào họ cũng trung thực với họ, họ không e ngại giấu giếm những điểm yếu của mình, còn các nhà văn của chúng ta thường hiện lên dưới mắt công chúng trong một ánh sáng quá loá và che hết tất cả những góc cạnh đi, và khi gặp nhà văn ấy thì độc giả hay bị thất vọng. Điều ấy có đúng với cả thế hệ ông hay không?

- Không biết lớp sau này thế nào, nhưng mà đối với chúng tôi, gọi là thế hệ cũ thì thật ra theo cá nhân tôi, nó yếu và mỏng, không nhiều. Hầu hết mình vẫn dùng câu “nhai thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi”. Những người trở thành tài năng lớn như Vũ Trọng Phụng cũng là viết để kiếm ăn.

- Rất nhiều bạn đọc cũng như một số nhà văn, nhà phê bình rất nuối tiếc cho những người, điển hình là hai nhà văn mất quá sớm là Vũ Trọng Phụng và Nam Cao. Vậy đến bây giờ ông có thể nghĩ rằng liệu họ có thể đạt được những đẳng cấp vinh quang hơn, lớn hơn nếu họ còn sống không?

- Tôi không được biết những cụ như Tản Đà hay Vũ Trọng Phụng khi tôi bắt đầu viết văn. Nhưng mà tôi biết Nam Cao. Nam Cao là người mà trước hết tôi cho là ông ấy còn sống thì ông ấy thể nào cũng dính vào chuyện sau này... (cười).

- Cái chết đã giúp Nam Cao thoát khỏi chuyện sau này. Nếu chưa mất thì cũng chưa chắc Nam Cao đã vượt qua được cái đỉnh của mình?

- Nam Cao là một trí thức tiểu tư sản, bởi vì gia đình ông ấy thì ở nông thôn thật nhưng đến đời ông ấy là học sinh ở Nam Định, ông ấy đã đỗ Thành Chung, đỗ diplome, tức cũng là trí thức. Ông ấy tiếp xúc với cái giới sau này khi ông ấy đi dạy học. Truyện Chí Phèo là 100% chuyện của chị ấy kể ông ấy nghe. Tất cả những truyện Nam Cao viết là đều vợ kể hết (cười).

- Ông đã từng 20 năm làm lãnh đạo Hội Văn nghệ Hà Nội, nói một cách thẳng thắn thì Hội Văn nghệ Hà Nội là một hội rất yếu, mà từ khi ông về thì càng trở nên yếu hơn và tờ Người Hà Nội trở thành một tờ báo kém nhất trong làng báo chí văn nghệ. Tại sao cái đất phồn hoa tập trung nhiều tài năng văn chương như thế mà Hội Văn nghệ lại không mạnh? Phải chăng các nhà văn không nên ngồi chung với nhau?

- Trước hết là thành phố có cho Hội tiền đâu.

- Tại lý do nào khác nữa hay chỉ có một lý do đó thôi?

- Tôi nghĩ là vì lý do vật chất nên không tập hợp anh em được. Thành phố có thể được coi là hơn các tỉnh, nhưng mà phải đủ dùng.

- Cái thời ông làm, thành phố có cho nhiều tiền hơn không ạ?

- Còn ít hơn nhiều vì lúc ấy còn liên quan đến Sở Văn hoá.

- Ông đã đi nhiều nơi trên thế giới, ông có thấy ở ta nhà văn dường như không thể sống nổi bằng một sự không quyền chức? Các nhà văn địa phương đã thế, các nhà văn trung ương cũng thế, hình như có quyền chức họ mới tồn tại được, mới duy trì được danh tiếng của mình, chứ không ai sống bằng tác phẩm cả. Tại sao lại như vậy?

- Vì ông nhà văn nào cũng là cán bộ thôi.

- Chính sách cán bộ đã khiến các nhà văn chúng ta như thế, và đấy có phải là một lý do khiến cho chúng ta quá ít các tác phẩm lớn?

- Cũng có thể. Không có sự điêu đứng, không có sự thay đổi, không có sự ghê gớm.

- Chúng ta có nhiều tác phẩm đúng hơn nhiều tác phẩm hay?

- Ừ. Đời sống dù sao cũng êm đềm...

- Nếu cho ông chọn thì ông chọn sự êm đềm hay một sự điêu đứng để tác phẩm hay?

- Không nên êm đềm. Lại nói chuyện khôn ngoan của tôi, tôi đi  nước ngoài nhiều nhưng nếu để ý sẽ thấy có bao giờ tôi đi dưới danh nghĩa Hội Nhà văn đâu. Cho đến bây giờ tôi vẫn là Phó chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Á - Phi - Mỹ Latinh (cười). Tôi đi theo con đường ngoại giao nhân dân. Bây giờ một là mình già rồi, hai là bây giờ tiếng Anh là chính, không còn tiếng Pháp cho mình nữa, mà mình loay hoay thì không còn mấy anh già nữa… (cười).

- Ông có điều gì ân hận trong suốt chừng ấy năm sống trên cõi đời không?

- Đời sống của tôi nhỏ nhoi. Từ gia đình cho đến bản thân, cuộc sống không có gì to lớn. Cho đến tận bây giờ tôi cũng chẳng biết dòng họ tôi là ai, ông cụ tôi ở đâu, như thế nào. Tôi sống với mẹ ở quê ngoại tôi.

- Liệu trong lòng một người như ông có còn một mối thù nào không?

- (Cười): Không!

- Có một tình yêu nào mong muốn mà ông không đạt được không?

- Tình yêu thì mình vốn là một cái thằng lăng nhăng, không có gì là cao siêu. “Thiếp như hoa. Chàng như con bướm lượn vành mà chơi”. Thế thôi. Bao giờ chia tay cũng đẹp và buồn (cười)! Không lừa ai.

- Ông có cảm thấy cô đơn khi tiếp chuyện thế hệ hậu sinh như chúng tôi không?

- Không!

- Cảm ơn ông vì cuộc trò chuyện thú vị này

H.T.Q.
.
.