Nhà văn Knut Hamsun: Mâu thuẫn một đời đau

Thứ Ba, 22/12/2009, 10:53
Trong lịch sử giải Nobel văn chương có rất nhiều dạng nhà văn khác nhau, nhưng có lẽ nhà văn Na Uy Knut Hamsun là nhân vật ẩn chứa nhiều mâu thuẫn nhất mà vẫn được nhận vinh hạnh này (ông được trao giải Nobel văn chương năm 1920).

Ông rất ghét sân khấu nhưng lại lấy một trong những nữ diễn viên tài năng nhất thời đại mình sống làm vợ. Ông ca tụng nghề nông nhưng sinh kế chủ yếu lại nhờ các khoản nhuận bút. Ông say đắm tình yêu nhưng lại ngưỡng mộ những chính trị gia sắt đá đã phải trả giá đắt cho việc làm này.

Năm 2009 đang qua, tại nhiều nước trên thế giới đã tổ chức nhiều hoạt động trọng thể kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Hamsun (ông sinh ngày 4-8-1859, mất ngày 19-2-1952). Trong ký ức của nhân loại, Hamsun mãi là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX, người mà ngay chính văn hào Nga Liev Tolstoi cũng rất ngưỡng mộ.

Knut Hamsun (tên họ thật là Knud Pedersen) cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình nghèo đông con ở  Lom, nằm trong khu vực thịnh nông nhất tại trung tâm Na Uy. Tuổi thơ của nhà văn lớn đã trôi qua trong cảnh lam làm vất vả trên ruộng đồng. Mới lên 9 tuổi, Knut đã buộc phải trở thành tá điền cho ông chú đằng mẹ, cực nhọc và đói khát, thậm chí còn bị đánh đập, đến mức chỉ sau vài ba năm (1873), đã phải bỏ nhà đi lang thang và kiếm sống bằng rất nhiều công việc khác nhau. Cuối cùng, Hamsun đã trở thành thợ làm giày ở thành phố Bode (miền Bắc Na Uy). Chính ở đây Hamsun đã hoàn thành tác phẩm đầu tay của mình "Con người bí ẩn" (Den Gaadefulde). Tiểu thuyết này đã được in với tên tác giả là Knud Pedersen vào năm 1877, khi nhà văn mới 18 tuổi.

Sang năm 1878, Hamsun trở thành giáo viên ở trường trung học tại Vesteralen, rồi đi làm trợ lý của một ông chánh án. Chính ở trong thư viện của ông chánh án này mà Hamsun đã phát hiện ra cho mình những tác phẩm đầy ấn tượng của các nhà văn lớn trên vùng đất Scandinavia như Bjornstjerne - Bjornson, Henrik Ibsen… Cũng trong thời gian này, Hamsun đã cho xuất bản tiểu thuyết "Bjorger" (1878),  mà trong đó nhân vật mang tên họ này đã viết những vần thơ xuất sắc về cuộc sống khổ ải của mình. Bút danh mà nhà văn dùng khi ấy là Knud Pedersen.

Nhờ có một thương gia nên cũng trong năm 1878, Hamsun mới lên được Cristinania (nay là Oslo) để mong tìm kiếm cơ hội lớn hơn cho tương lai. Tuy nhiên, tại đó, Hamsun không có cách gì để đủ sống bằng tiền nhuận bút nên sau khi tiêu hết cả số tiền chắt bóp được, cùng quẫn quá, Hamsun phải đi làm thợ sửa đường ở miền Đông Na Uy. Tới năm 1882, có được một số lá thư giới thiệu tới những người Na Uy di cư sang Mỹ có thế lực, nhà văn đã vượt đại dương tới "thế giới mới". Tuy nhiên, những kỳ vọng phù hoa đã mau chóng tan thành mây khói và Hamsun đã buộc phải làm công việc đồng áng ở bang Wiconsin, rồi làm thư ký cho một nhà truyền giáo người Na Uy ở Minnesota. Cảnh bần hàn đã khiến chàng trai trẻ lâm trọng bệnh và các bác sĩ dự đoán là dường như Hamsun mắc bệnh lao. Rốt cuộc, nhà văn lại phải tìm đường về cố quốc.

Về tới Oslo năm 1884, Hamsun đột nhiên thấy người khoẻ khoắn ra. Ông đã cư trú một thời gian ở Valders và tại đó, với bút danh Knut Hamsund (chữ "d" về sau do lỗi nhà in nên đã bị mất đi) đã hoàn thành công trình về nhà văn Mỹ Mark Twain. Tại Oslo, con đường văn học của Hamsun không mấy suôn sẻ và nhà văn lại lâm vào cảnh khốn cùng. Tới năm 1886, cực chẳng đã, Hamsun lại dấn bước vượt đại dương sang Mỹ. Đến Chicago, Hamsun buộc phải làm người bán vé trên xe điện và mỗi khi hè tới lại đi kiếm tiền thêm bằng công việc nhà nông trên những cánh đồng lúa mì ở Bắc Dakota. Thất vọng về những bước đi đầu chập chững trên con đường văn học, Hamsun lại quay về châu Âu và ở Copenhagen, trung tâm in ấn thuở đó của vùng Scandinavia, ông đã mang tác phẩm đang viết dở tới ra mắt với Edvard Brandes, người anh em của nhà phê bình văn học danh tiếng Georg Brandes, biên tập một tờ nhật báo ở thủ đô Đan Mạch. Edvard Brandes có ấn tượng mạnh như nhau trước vẻ ngoài tiều tụy của Hamsun lẫn đoạn trích từ tác phẩm mà nhà văn đang viết.

Tới cuối năm 1886, tác phẩm trên đã xuất hiện trên một tạp chí văn học của Đan Mạch và tới năm 1890 đã được in thành sách ở Copenhagen với nhan đề "Đói" (Suit). "Đói" đã gây nên ấn tượng mạnh và ngay lập tức đã tạo cho Hamsun danh giá của một nhà văn nghiêm túc. Trong tiểu thuyết này, Hamsun đã cắt đứt liên hệ với truyền thống hiện thực phê phán đang là chủ đạo trên văn đàn Scandinavia thời đó và thậm chí cả quan điểm cho rằng văn học phải giúp cải thiện điều kiện sinh hoạt của con người. Tiểu thuyết "Đói" về thực chất không có cả cốt truyện, kể về một chàng trai trẻ ở tỉnh lẻ lên sống tại Oslo và mơ ước trở thành văn sĩ. Cực kỳ tin tưởng vào tài năng thiên phú của mình, chàng trai này thích chịu cảnh bần hàn còn hơn là từ bỏ mơ ước. "Đó là nhân vật của Dostoievsky - nhà phê bình văn học Mỹ Alric Gustafson nhận xét. - Đau đớn cả về tâm hồn lẫn thể xác, bị cơn đói giày vò, chàng trai đã biến cuộc sống nội tâm của mình thành một chuỗi những ảo ảnh". Nhân vật chính trong tiểu thuyết vật vã không chỉ vì đói mà vì thiếu thốn những giao tiếp xã hội, ức chế thể xác và sự thiếu điều kiện để bộc lộ bản thân… \

Sự lạc lõng của nhân vật trong tiểu thuyết của Hamsun đã là một tín hiệu báo trước của cái gọi là "phản nhân vật" trong văn học thế kỷ XX. Như nhận xét của nhà thơ đương đại Mỹ Robert Bly, "sự sống động và gay cấn trong văn xuôi của Hamsun đã làm chấn động tất cả". Tiểu thuyết "Đói" đã được viết bằng những câu văn ngắn đầy biểu cảm, những mô tả rõ ràng, mạch lạc liên kết với những nhận định cố tình chủ quan, đa nghĩa… Tác phẩm được hoàn thành vào thời điểm mà những Arthur Schopenhauer, Eduard von Hartmann, Friedrich Nietzsche và August Stringdberg lên tiếng kêu gọi chú ý tới những sức mạnh vô thức bí ẩn phức tạp tác động tới hành vi của con người. \

Hamsun đã tổng kết quan điểm riêng của ông về "văn xuôi chủ quan" trong tiểu luận "Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn" ("Fra det ubevidste Sjaeleliv"), cũng được hoàn thành vào năm "Đói" được xuất bản. Từ bỏ những quy ước của "văn xuôi chủ quan", Hamsun đề nghị nghiên cứu "những chuyển động bí ẩn của tâm hồn diễn ra trong những vực sâu thẳm nhất của vô thức, phân tích cõi hỗn mang vô độ của cảm nhận, qua kính phóng đại xem xét cuộc sống tinh tế của trí tưởng tượng, dòng chảy vô cùng của tư tưởng và cảm xúc".

Hamsun đã lại sử dụng phương pháp chủ quan trong tiểu thuyết "Những điều bí ẩn" (Mystener, 1892), viết về một kẻ lừa đảo tới một làng nhỏ ven biển và ở đó, làm mọi người kinh ngạc bởi cách ứng xử kỳ dị của hắn. Tiểu thuyết "Quý ngài" (Pan, 1894) được viết dưới dạng hồi ức của Thomas Glahn, người đã chối bỏ xã hội văn minh và sống theo kiểu một thợ săn và đánh cá gần thị xã ở Nordland. "Tôi cố gắng tương tự như Rousseau trình bày cái gì đó tương tự như tôn vinh thiên nhiên, sự nhạy cảm, hay đúng hơn, sự siêu nhạy cảm" - Hamsun thổ lộ với một người bạn khi đang viết "Quý ngài"…

Hamsun đã viết tới hơn 30 tiểu thuyết cùng nhiều tác phẩm thi ca và kịch bản. Từ năm 1895 tới năm 1898, ông đã hoàn thành bộ ba kịch bản về cuộc sống của một triết gia "Bên ngưỡng cửa vương quốc" ("Ved rikets port", 1895), "Tấn kịch đời" ("Livets spill", 1896) và "Hoàng hôn" ("Aftenrode", 1898). Theo đánh giá chung của các nhà phê bình, trong các kịch bản của mình, Hamsun đã không mấy thành công trong việc diễn tả tính cách các nhân vật sâu sắc như trong các tiểu thuyết. Hamsun tự đốt đa phần các tác phẩm thi ca của mình trước khi chúng được in ra, nhưng năm 1904 ông đã xuất bản tập thơ "Dàn đồng ca hoang dã" ("Det vilde kor"), với chất lượng nghệ thuật không hề thua kém các tác phẩm văn xuôi.

Từ đầu thế kỷ XX, Hamsun đã viết nhiều tập tiểu thuyết dày với nhiều nhân vật đa dạng và câu chuyện được kể từ ngôi thứ ba, thí dụ như "Những đứa con của thế kỷ" (Bern av tiden, 1913) và phần tiếp theo của nó "Thị trấn Segelfloss" (Segelfoss By, 1915)…

Sau khi Hamsun chuyển về ở trong trang trại năm 1911, sự xa lạ của ông đối với xã hội đương thời càng trở nên nặng nề hơn cùng với sự chối từ những sự việc dẫn tới chiến tranh thế giới thứ nhất và xã hội công nghiệp đương thời. Tâm trạng này đã được thể hiện trong tiểu thuyết "Nhựa của đất" (Markens grede) in năm 1917. Chính tiểu thuyết này đã góp phần quan trọng giúp Hamsun được nhận giải Nobel văn chương năm 1920. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển Harald Hjarne  đã nhận xét: "Những ai tìm kiếm trong văn học… sự mô tả trung thực thực tế, sẽ thấy trong "Nhựa của đất" câu chuyện về cuộc sống mà bất cứ ai cũng sống, dù ở đâu hay làm việc gì". Ông Hjarne so sánh "Nhựa của đất" với những trường ca luân lý của Hesiod. Trong lễ trao giải Nobel, Hamsun đã từ chối đọc diễn từ…

Một năm sau khi xuất bản "Nhựa của đất", Hamsun đã mua một cơ ngơi ở miền Nam Na Uy, nơi ông vừa sáng tác văn học vừa làm ruộng. Các tác phẩm sau này của ông ngày càng  nhuốm màu u ám, phủ nhận hiện thực…

Bị ảnh hưởng tiêu cực do những đánh giá mang tính phê phán đối với các tác phẩm của ông, Hamsun đã bị khủng khoảng tinh thần. Ông tự chạy chữa bệnh bằng phương pháp phân tích tâm lý. Trên phương diện xã hội, Hamsun đã bị suy đồi không thể chạy chữa được. Từ chỗ phủ nhận hiện thực tư bản chủ nghĩa, ông phủ nhận luôn cả những khía cạnh lành mạnh trong cuộc sống con người. Thậm chí năm 1934, ông còn công khai tuyên bố về thái độ đồng tình của ông đối với chế độ Quốc xã.  Mặc dù ông không gia nhập đảng Quốc xã Na Uy nhưng đã viết một số bài báo ủng hộ lực lượng này, được in trong giai đoạn phát xít Đức chiếm đóng Na Uy. Năm 1934, Hamsun đã sang Đức và gặp Goebbels và Hitler… Hàng nghìn độc giả khi đó đã trả lại sách của Hamsun cho ông để phản đối sự việc này.

Cuối chiến tranh thế giới thứ hai, Hamsun và vợ đã bị bắt. Mùa thu năm 1945, Hamsun được đưa vào bệnh viện tâm thần ở Oslo rồi vào trại dưỡng lão. Năm 1947, ông đã bị đưa ra tòa và bị buộc tội phản bội tổ quốc và bị phạt 425 nghìn cuaron (gần 80 nghìn USD) nhưng do suy thoái trí tuệ nên không bị tống giam. Năm Hamsun 90 tuổi, ông cho in tập truyện ngắn "Theo lối mòn hoang" ("Pa gjengrodde stier") kể về vụ án xét xử ông. Cuốn sách này được viết rất sinh động dù không hề biện minh được chút nào cho cách hành xử của Hamsun trong chiến tranh thế giới thứ hai…

Hamsun qua đời trong cảnh cô quạnh. Bộ toàn tập các tác phẩm của ông được in sau khi ông mất hai năm. Mặc dù phê phán nghiêm khắc cách hành xử của Hamsun, xã hội Na Uy cũng như cộng đồng văn chương thế giới đối xử rất rạch ròi đối với di sản văn học của ông: đó là những báu vật của nhân loại

Hoàng Oanh
.
.