Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn: Suốt một đời đi tìm cái đẹp
- Nhà phê bình văn học Từ Sơn: Nghiêm cẩn với cái đẹp
- Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp: 30 năm và hành trình tìm kiếm đỉnh cao
- Nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa: Có lúc có ân hận
Khóa “Kiêu binh”
Vậy là thầy đã đi xa thật rồi. Ánh hồi quang cuối cùng của một thế hệ vàng giảng dạy và nghiên cứu văn học vụt tắt. Học trò của thầy không còn được trò chuyện cùng thầy khi gặp gỡ cafe hay chat cùng thầy trên facebook.
Có lẽ sẽ phải nhiều năm nữa mới lại có một người thầy giảng văn tài hoa và tinh tế ở trường phổ thông, khiến học trò yêu văn đẹp, mê văn hay như thầy đã làm được.
Thầy đã đi quãng đường 58 mùa xuân, mới thêm 8 nhịp của một phần hai kiếp nhân sinh ba vạn sáu nghìn ngày, vậy là cũng đủ tài hoa trọn một cuộc đời. Một người bạn đồng niên với thầy đã lặng đi khi em báo tin thầy rời cõi tạm. “Có lẽ trời xanh kia muốn giữ mãi hình ảnh trẻ trung của Chu Văn Sơn chứ không muốn có một Chu Văn Sơn lụ khụ”.
Nói xong, anh cố giấu những nỗi xúc động, vờ quay mặt nhìn xa xa... Cái đẹp bao giờ cũng mỏng manh và người tài hoa tuổi thọ hình như chẳng được dài?
Trương Trào chẳng phải có câu: "Tài tử mà lại đẹp, mỹ nhân mà lại biết làm văn ắt là không thọ được. Không phải do tạo hóa đố kỵ mà bởi hạng người đó không chỉ là báu vật của một thời mà là báu vật của muôn đời, nên không thể lưu lại lâu trên cõi thế mà hóa ra nhàm".
Đầu năm Kỷ Hợi này, một người bạn đồng niên, đồng môn của thầy là chị Lại Thái Hưng từ CHLB Đức về, hai chị em trò chuyện, chị lại nhắc đến thầy, đến những kỷ niệm của khóa kiêu binh.
Trong hơi thở của trời xuân rất khẽ, từng kỷ niệm của chị và những mẩu chuyện thầy từng kể cho em nghe cứ đan cài để thành một bức tranh xinh xắn về khóa học có một không hai ấy.
Tiến sĩ Chu Văn Sơn (1962 – 2019). |
Năm học 1979-1983 của khoa Văn, cái tên hồi đó còn thêm số I đằng sau là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, với nhiều cái đầu tiên. Lần đầu tiên tổ chức thi học sinh giỏi trên quy mô toàn quốc.
Lần đầu tiên có chuyện đội tuyển được vào thẳng Sư phạm. Khóa ấy, như lời thầy kể thì “toàn những tay khá cả”. Đi kèm với đó là kiêu và quậy. Như lời chị Hưng nói, đó là đám “kiêu binh” đã khiến các thầy cô phải điên đầu.
Có những giờ giảng mà nhìn xuống lớp học chỉ lưa thưa vài sinh viên, còn đâu là nghỉ học cứ như bãi khóa. Nguyên nhân cũng bởi nhiều thầy cô dạy “buồn chết đi được”, đấy là sau này lúc vui chuyện thì thầy tỉ tê kể cho em nghe. Nhiều biện pháp đã được Đảng ủy khoa, Ban chủ nhiệm khoa, Liên chi đoàn khoa áp dụng nhưng chẳng ăn thua. Kiêu binh vẫn cứ bỏ tiết.
Chỉ đến khi những giờ giảng của các giáo sư Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Phan Trọng Luận… thì lạ thay, chẳng ai bảo ai, lớp học lúc nào cũng chật kín.
Sau đó, xuất hiện những bài vè, bài họa thơ chân dung các thầy: “Vừa dạy vừa hát/ Là thầy Thế Cường/ Vừa dạy vừa “lườm”/ Là thầy Trường Phát/ Vừa dạy vừa quát/ Là thầy Hoàng Dung/ Thầy Lưu Đức Trung/ Hiền chi hiền thế…”.
Nhắc đến chuyện làm vè, thì đỉnh cao phải kể “nửa đêm truyền hịch”, “rạng ngày bố cáo” đã làm náo loạn xô chậu và ầm ĩ đèn đuốc trong khu nhà A7 ký túc xá của sinh viên khoa Văn. Nhiều bài hịch, bài cáo, những khoá sau vẫn còn truyền tụng, như “Cáo cử nhân đăng trường ứng thí”, “Cáo tú tài tựu trường”, “Hịch sống vệ sinh”....
Lụy cái đẹp
Hình như trong quãng thời gian vừa tròn một con giáp được làm học trò của thầy, tôi chưa bao giờ gặp thầy vào mùa hè? Có lẽ như thế. Tôi chỉ gặp thầy vào mùa xuân và mùa thu. Tại sao tôi nhớ như vậy, vì hình như thầy cũng không ham la đà bia rượu. Mà bia rượu thì tập trung mùa hè.
Phải rồi, mùa hè, còn là mùa thầy bị “nhốt” để ra đề thi học sinh giỏi và đề thi tuyển sinh quốc gia, đề thi tuyển sinh đại học. Tốt nghiệp, ra trường đi làm tôi mới hiểu vì sao những giờ giảng của thầy luôn được đông đảo học trò đến lớp ngồi nghe như thế.
Có bạn tôi mới đây nhắc lại bài giảng, thầy đã nói sự khác nhau của sinh viên năm 1-2-3-4 là ở chữ R.
Năm nhất thì “Rạo rực”, năm hai “Ríu rít”; năm 3 “Rộn ràng” và năm tư thì “Rệu rã” Cảm giác của chúng tôi thì giờ học của thầy lúc nào cũng đầy đủ và không khí thầy trò rất gần gũi. Gần như giờ thầy lên lớp ai cũng ghi chép rất đầy đủ về cái thế giới nghệ thuật có vườn tình và tình nhân.
Ra trường, đi làm, thầy trò càng có thêm những dịp chia sẻ chuyện của khoa khi những cơn lốc bất ngờ ào qua, tôi càng biết, càng hiểu và càng thêm yêu quý thầy.
Mặc dù tôi không theo nghề dạy học mà đi làm báo nhưng đôi lúc hứng chí tôi vẫn lên lớp cho một số sinh viên chuyên ngành báo chí. Thầy là tấm gương để tôi soi vào làm sao có những giờ giảng mà chẳng cần điểm danh sinh viên vẫn đến lớp đều.
Muốn vậy, người thầy, ngoài kỹ năng sư phạm, còn phải có yếu tố của một nhà khoa học và một người nghệ sĩ. Lý thuyết thì đơn giản như vậy đấy nhưng để thực hành được thì phải rèn luyện kiên trì cộng với một chút của trời cho mà không phải ai cũng có.
Trời đã phú cho thầy con mắt nhìn ra cái đẹp của văn chương, bằng tư duy khoa học và kỹ năng sư phạm, thầy như một khối nam châm có sức hút sinh viên vào các bài giảng, dù chúng có tản mát hay nhẩn nha rong chơi, mải mê chinh chiến và yêu đương ở góc biển chân trời nào cũng đều thấy tiếc nếu không được nghe thầy giảng bài.
Đôi khi, tôi lại vẩn vơ nghĩ, bây giờ công nghệ hiện đại, sinh viên lên lớp có thể quay clip toàn bộ bài giảng, hay livestream bài giảng của thầy, nhưng cái thú vẫn là được trực tiếp ngồi nghe thầy giảng bài rồi đôi khi hỏi cắt ngang một câu vừa nảy ra trong đầu. Dù bị bất ngờ nhưng thầy vẫn trả lời gãy gọn và lại nhập vào làn bài giảng mà không hề lạc hướng.
Trong ghi chép của tôi về giờ giảng của thầy có một lát cắt về sinh viên sư phạm. Ngay từ đầu thầy đã muốn kích thích sinh viên sáng tạo bằng cách phá vỡ và vượt lên những nếp tư duy cũ kỹ hằn sâu và ăn sâu thành thói quen vô thức, phản xạ khó bỏ của con người. Thầy cắt nghĩa màu sắc để người ta nhận ra sinh viên sư phạm là gì: là cái chất chân phương, mực thước.
“Tự tình cùng cái đẹp” – cuốn sách cuối cùng của Tiến sĩ Chu Văn Sơn. |
“Điều này yếu tố tích cực của nó là đem lại cho số đông những người trong xã hội, đặc biệt là những người già một cảm giác yên tâm”. Chỉ một câu nhưng thầy dừng lại đôi chỗ, cười thành tiếng như muốn nhấn mạnh đến mấy chữ “người già”, đến “cảm giác yên tâm”.
Bỗng có tiếng một nữ sinh hỏi vọng lên: “Chúng ta là lãng tử”. Thầy trả lời ngay: Chúng ta đừng hiểu lãng tử theo nghĩa phất phơ. Lãng tử, nghĩa gốc của nó là người lãng mạn. Mà lãng mạn không phải là người sống kiểu tài tử, phù phiếm, thậm chí nhom nhem.
Theo tôi, lãng tử là người có một đời sống tinh thần thật sự phóng túng”. Câu trả lời của thầy thuyết phục sinh viên ngay để thầy tiếp tục lái vô-lăng về làn bài giảng.
“Các bậc phụ huynh nhìn thấy chân phương mực thước là yên tâm để họ trao gửi con gái mình cho chúng ta”. Lẽ ra phải là trao gửi “con cái” nhưng thầy nháy mắt đùa vui với mấy cậu sinh viên chúng tôi, “mỳ chính cánh” trong lớp, mà đổi thành “con gái”. Trao gửi con gái cho mấy anh sinh viên văn khoa thì cứ yên tâm.
Thầy cắt nghĩa, thực chất sinh viên sư phạm tự cắt xén mình mà không biết. Điều đáng buồn ở tuổi trẻ sư phạm đó là bị đám đông vô hình cuốn đi.
“Theo tôi nghĩ, khi chúng ta có cá nhân mạnh thì chúng ta sẽ có ý thức cá nhân mạnh. Ý thức cá nhân mạnh tức là luôn luôn khao khát mình được là mình chứ không phải là bản sao của người khác. Mình không phải là cái bóng của người khác, và mình không phải là sự hòa tan vào đám đông. Mình phải là mình. Tất nhiên đừng phủ nhận đám đông, đừng bất chấp đám đông. Tôi nhắc lại: không nên để mình bị hòa tan vào đám đông. Càng không nên là người bị uốn nắn. Chúng ta phải là mình, trước hết là mình”.
Thầy đi xa mãi rồi, một đời tài hoa, một đời luỵ cái đẹp, sẽ chẳng còn cơ hội cho em được đọc những bản thảo thầy gửi qua email như “Ăngkor những đối cực của cái đẹp”, như ngày nào nữa.
Nhớ đến Hoài Thanh “Đọc Chu Văn Sơn, hoặc một bài viết nghiêm túc đăng báo hay chỉ một note nhỏ trên facebook, tôi luôn thấy thú vị. Thú vị vì ở anh luôn có những phát hiện rất tinh tế, bất ngờ. Anh nhìn thấy, phát hiện ra những cái đẹp mà ít người nhìn thấy. Một ngòi bút thật tài hoa và tinh tế. Trời phú cho Chu Văn Sơn một khả năng cảm nhận, một con mắt nhìn ra cái đẹp của văn chương. Không hiểu sao, đọc Chu Văn Sơn tôi cứ hay liên tưởng đến Hoài Thanh. Có lẽ vì bởi ở Chu Văn Sơn có những điểm tương đồng với tác giả của "Thi nhân Việt Nam"? Tiến sĩ Toán học Nguyễn Hùng Phong - CHLB Nga |
Tiếng kêu vô nghĩa “Ở một đoạn khác, thầy giảng về hai mệnh đề. Thứ nhất, chúng ta trưởng thành trong cô đơn. Thứ hai, chúng ta sáng tạo trong cô đơn. “Cô đơn là khi mà cái tôi đối diện với chính nó. Đối diện với chính nó thì bao giờ cũng trả lời được câu hỏi rất tốt thế này: Mình là ai nhỉ? Mình là ai trong cõi đời này? Mình định trở thành ai? Mình là gì ở trong cõi đời này?” Vừa lúc đó, ngoài đường Xuân Thủy có tiếng hú dài của ôtô cấp cứu 115 hay cảnh sát 113 dẹp đường, khiến cả lớp cười rộ lên. Còn thầy cũng tếu táo: “Đó, câu trả lời: Mình chỉ là tiếng kêu vô nghĩa”.
Nhật ký của Khải Mông
|