Người cất bồ chữ cho người Thái

Thứ Năm, 27/02/2014, 10:30
Những ngày cuối tháng 11 đầu tháng 12, đã vào đông nhưng thời tiết cũng chỉ hơi se lạnh. Trời hanh nắng vàng, quá thuận lợi cho một chuyến công tác ngược lên Tây Bắc. Đích đến của chúng tôi là thị xã Nghĩa Lộ tỉnh Yên Bái, là Mường Lò trong câu đầu miệng không che giấu niềm tự hào của người Thái tự bao đời: “Nhất Thanh nhì Lò”. Nhân vật mà chúng tôi sẽ gặp là ông Lò Văn Biến - Ải Biến, như cách gọi quen thuộc của người Thái - người vẫn được coi là một pho sử sống về văn hóa Thái vùng Mường Lò.

Đọc một số bài báo, thấy người ta còn phong cho ông là “nghệ nhân dân gian”, là “báu vật nhân văn sống”. Chẳng biết thực hư thế nào? Có đủ chất liệu cho một bộ phim tài liệu chân dung?

Lúc gặp ông, với chúng tôi, trước hết là một sự ngạc nhiên. Ải Biến năm nay tám mươi mốt tuổi, mái tóc dài phủ gáy bạc như cước nhưng lưng rất thẳng, mắt rất sáng, da mặt hồng hào, đi lại nhanh nhẹn như thanh niên đương sức. Và đặc biệt là một trí tuệ đầy mẫn tiệp, một cách nói chuyện rất hóm hỉnh. Ông kể: Năm lên bảy tuổi ông được cha cho đi học chữ Thái ở nhà ông mo Phớ là người nhiều chữ nhất vùng. Học vào buổi tối, với cái giá cho mỗi buổi học là mười lăm cân thóc – cả một “ngân khoản” đáng kể nên chỉ có gia đình khá giả mới có thể kham nổi. Học không có giấy bút gì cả. Cứ đốt củi lấy than vạch lên mo cau, thầy viết chữ nào trò viết theo chữ đó, rồi ê a đọc. Vốn sáng dạ, chỉ qua bốn buổi học là ông đã “thanh toán” xong toàn bộ vốn liếng chữ nghĩa của thầy.

Lớn lên ông đi theo ngành sư phạm và đã từng có hơn mười năm làm thầy giáo đứng lớp. Vào thời điểm này, chương trình giáo dục cho con em người Thái ở trường phổ thông (không hiểu sao) bỏ dạy chữ Thái. Di hại ập đến sau đó không lâu: Rất ít người Thái còn có thể đọc được chữ viết của tổ tiên mình. Những cuốn sách chữ Thái bị quăng quật, bị bỏ quên, thậm chí bị vứt xé không thương tiếc. Không đành lòng để những thứ quý giá như thế bị mất đi trong sự vô tri của người đời, ông Biến bắt đầu nhận lấy công việc tự mình đặt ra cho mình: Sưu tầm thư tịch chữ Thái cổ, bằng mọi cách, sau đó dịch ra tiếng phổ thông. (Có lần, để có được một cuốn sách nát, ông đã phải mua bằng toàn bộ số tiền vợ nhờ đi mua sắn, rồi về nói dối bà là để rơi mất trên nương).

Ngày qua ngày, năng nhặt chặt bị, cho đến bây giờ ông đã có trong nhà đến hơn trăm đầu sách, những cuốn sách cũ đến mốc meo, khô giòn, phai chữ, nhiều trang bị mủn, nhiều trang lại dính vào nhau chặt đến nỗi phải khó khăn lắm mới bóc gỡ được. Ông đã cố gắng dịch một phần trong số đó cho bà con cùng đọc: Đạo lý làm người (Quan xon côn), Chuyện bản mường (Quan tố mướng), Bước đường chinh chiến của cha ông (Táy puk xấc), Cầm Hánh đánh giặc Cờ Vàng (Căm Hánh tặp sấc cớ lương), Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) v.v… Chỉ cần kể ra như vậy thôi, có lẽ đã đủ để những ai có một ít hiểu biết về Thái học hoặc folklore nói chung phải giật mình, vì đấy chính là những tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn chương dân gian của người Thái. Chúng được người Thái chép lại bằng văn tự của chính mình. Chúng hiện hình thành thư tịch, thành thứ mà ở nhiều nước trên thế giới, nếu may mắn có, người ta sẵn sàng bỏ ra cả núi tiền để giữ cho bằng được. Nâng niu chăm bẵm. Ấy vậy mà ở ta, trong trường hợp ông Biến, đó chỉ là việc của một phó thường dân nơi xó núi, chưa hề được đào tạo về sưu tầm, nghiên cứu thư tịch học lấy một giờ.

Đến năm 2007, gần như độc lực, ông Biến quyết định mở lớp dạy chữ Thái cổ cho bà con trong vùng, ông tự biên soạn giáo án và đích thân đứng lớp. Lớp học đầu tiên được hơn năm mươi học viên, người Thái, người Kinh đủ cả (trong đó có bà Lò Thị Huân, hiện là Bí thư thị ủy Nghĩa Lộ). Kết quả thật không ngờ: Ai nấy đều đọc thông viết thạo, đều vui mừng phấn khởi vì đã “đọc được chữ của ông bà để lại”. Cả một phong trào học chữ Thái cổ được hình thành và phát triển kể từ đó. Đến nay thì đã là lớp thứ tư. Vì thế, ngoài cái tên “Ải Biến”, người Mường Lò còn gọi ông là “thầy Biến”.

Nhưng ông không chỉ là “thầy Biến” đối với bà con Mường Lò. Trong những năm qua, nhiều nghiên cứu sinh ngành Thái học người nước ngoài (Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp v.v..) nghe tiếng ông đã lặn lội tìm đến Mường Lò để học hỏi, trao đổi cùng ông về chữ Thái, văn hóa Thái. Không che giấu niềm tự hào, ông chỉ cho chúng tôi thấy căn nhà sàn nhỏ ở phía góc vườn – ông ở nhà sàn lớn phía trước – bảo rằng: “Đấy, cái cậu người Nhật Bản đã ở đấy suốt mấy tháng trời để học cùng với tôi đấy”. Những kết quả nhãn tiền ấy phần nào cũng giúp cho công việc của ông trong hiện tại trở nên bớt khó khăn hơn. Chính quyền địa phương và một vài tổ chức hội đoàn đã đóng góp chút kinh phí để hỗ trợ ông giảng dạy. “Đủ để tôi trả tiền xăng xe đi lại” – ông bảo thế, dù phương tiện đi lại của ông thật ra chỉ là… xe đạp điện. 

Nhưng thầy Biến không chỉ dạy chữ, thầy còn dạy cả múa xòe cho bà con. Nghe có vẻ lạ: Xòe Thái vẫn là đặc sản của văn hóa Thái kia mà, ai cũng biết, sao lại phải dạy? Nhầm to. Xòe Thái không phải là việc đốt đống lửa ở giữa vòng người nắm tay nhau hết chụm vào rồi lại tản ra. Xòe như thế chỉ là xòe Thái… lai Kinh, chỉ là cách vung tay vung chân để cho hả hơi men sau một chầu uống rượu túy lúy mà thôi, chẳng có gì là nghệ thuật cả.

Trong trí nhớ của nhiều ông già bà cả, Mường Lò xưa có nhiều đội xòe chuyên nghiệp, nhiều điệu xòe đầy quyến rũ, đủ sức làm ngây ngất lòng và níu chân khách phương xa. Nhưng qua thời gian thì cứ mai một dần. Phải nhờ tới ông Biến cất công sưu tầm và truyền dạy, người Mường Lò nay mới biết đến sáu điệu xòe cổ tưởng đã thất truyền. Chúng tôi đã may mắn được thưởng thức một cuộc xòe như vậy. Và thêm một lần ngạc nhiên nữa khi nhìn ông lão bát tuần cực dẻo tay trống, say sưa giữ nhịp cho chị em Thái thướt tha váy áo múa lượn uyển chuyển trong ánh lửa bập bùng. (Ắt không thừa nếu người viết mở ngoặc đơn để nói cho chi tiết hơn: Vẫn những cô gái Thái đầy quyến rũ trong cuộc xòe ấy, chỉ sáng hôm sau, khi đi chợ Mường Lò, đã trở lại với chúng tôi bằng hình ảnh của những người phụ nữ rất lam lũ đời thường. Họ tất bật bán mua mớ rau con cá, củ sắn củ mài, như chẳng hề có liên quan chút gì đến múa đến xòe).

Đôi mắt ông cứ ướt rượt lên, long lanh, như có đuôi. Đôi mắt gây ấn tượng đến nỗi, đêm hôm ấy, sau mấy chén rượu nồng bên bếp lửa nhà sàn, cậu quay phim trong đoàn chúng tôi bạo dạn hỏi ông về chuyện… yêu đương thời trẻ. Ông chỉ tủm tỉm cười, không trả lời, nhưng ra chiều đắc ý. Tò mò hỏi tiếp về tục “chọc sàn” của người Thái, chúng tôi được ông giải thích: “Các anh đừng có tưởng bở nhé. Con gái Thái chúng tôi đa tình nhưng không dễ dãi, không phải cứ muốn chọc là chọc lung tung thế nào cũng được đâu. Muốn tán nó, anh phải biết thổi sáo, thổi khèn bè. Thổi, trước hết là cho cha mẹ nó nghe đấy. Tiếng khèn tiếng sáo bộc lộ tâm tính của anh. Cha mẹ nó thấy hợp, để yên, thì lúc ấy anh mới được lại gần mà lấy cây sáo hoặc cây khèn mà chọc khẽ vào gầm sàn cái chỗ nó nằm, nó sẽ ra trò chuyện với anh. Bằng không, họ đuổi cổ anh liền, đừng có mong bén mảng”.

Hỏi về đời tư, thì biết ông Biến cũng có chuyện buồn. Vợ chồng ông sống với nhau đến nay đã ngót nửa thế kỷ, sinh được năm trai một gái. Cậu con trai út tên Lò Văn Thư, thông minh đĩnh ngộ, được ông quý nhất và được ông dạy cho tất cả những gì ông biết: Chữ Thái, múa xòe, chơi tính tẩu, thổi khèn bè… thì lại chẳng may gặp nạn mất sớm, khi tuổi mới ngoài hai mươi. Lá xanh rụng trước lá vàng. Khó có thể nói cho hết nỗi buồn đau trong lòng người cha khi bị mất đi đứa con yêu.

Cái chết của con khiến ông như sụp đổ, chẳng thiết làm gì nữa ngoài việc hàng ngày mang cây khèn bè ngồi bên mộ con, thổi lên những thanh âm thê lương nẫu ruột. (Nghe chuyện này, máu nghề nghiệp nổi lên, chúng tôi bạo dạn xin ông “diễn lại” để ghi hình, hy vọng sẽ có một trường đoạn làm điểm nhấn cho bộ phim. Ông đồng ý. Và đây là một hình ảnh mà có lẽ chúng tôi sẽ rất khó quên: Giữa ruộng ngô rộng mênh mông, dưới bụi tre rậm, ông già tóc bạc như cước ngồi thổi khèn bên mộ con. Tiếng khèn nức nở ai oán hòa lẫn tiếng gió, tiếng tre đưa kẽo kẹt, đôi lúc cứ thít lên như tiếng khóc bị nén lại. Mắt ông ngấn lệ. Tuổi già hạt lệ như sương. Người già vốn ít khóc. Còn khóc, ắt phải buồn lắm).

Nhưng rồi thời gian trôi qua, nỗi đau cũng nguôi dần. Ông tự nhủ với lòng: Không còn con để truyền lại vốn hiểu biết về văn hóa Thái của mình thì truyền cho những người khác, cho cộng đồng. Và phải làm thật nhanh, thật gấp, vì ông đã ở tuổi xế chiều và thời gian thì nào đợi ai bao giờ. Có lẽ, đây chính là một trong những lý do khiến Ải Biến, như chúng tôi thấy và như người Mường Lò đều công nhận, miệt mài “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, tự nguyện làm người bảo tồn, truyền dạy và phát huy những tinh hoa trong di sản văn hóa Thái vùng Mường Lò.

Cuối cùng cũng đến lúc đóng máy. Chia tay ông Biến, rời Mường Lò một chiều đông trong tiếng khèn bè lúc trầm lúc bổng, chúng tôi nhủ lòng sẽ còn trở lại. Để nghe ông kể chuyện. Để thấy lại hình ảnh một ông lão tóc dài trắng như cước đang gò lưng cặm cụi giữa những trang sách cũ nát, chữ viết ngoằn ngoèo như giun dế. Để thấy lại, vẫn ông lão ấy, đang dẻo tay trống giữa dập dìu váy áo của vòng xòe Mường Lò đầy quyến rũ…

Hoài Nam
.
.