Người bộ hành lặng lẽ
1. Không dưới hai lần, Phạm Quốc Bản (nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, nguyên Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội) nói về một người mà ông vì nể từ thời trẻ.
Ông Bản say sưa kể: Người ấy, khi mới 17 tuổi, đã tạo ra sức hấp dẫn trước cả trăm con người. Người ấy nói chuyện về Bác Hồ, về Lê-nin, về lý tưởng sống của thanh niên…Ngày ấy, cánh lính trẻ chúng tôi nghe, nhìn và nhớ mãi. Đó cũng là kỷ niệm đẹp, khó quên trong cuộc đời quân ngũ của chúng tôi. Chuyện này xảy ra lâu lắm rồi…
Với Phạm Quốc Bản, hình như để ông ấn tượng đến mức dai dẳng về một người như thế, không dễ dàng gì. Bởi vì, đã nhiều năm, kể từ khi quen biết ông, tôi ít khi nghe ông nhắc cụ thể về một cá nhân nào. Không ít người còn ngại bởi sự trực tính và sòng phẳng đến rất lính của ông.
Người ấy là cựu chiến binh, là nhà thơ, nhà xã hội học Mai Quỳnh
Còn tôi lại nhớ Mai Quỳnh
Vào cuối năm 1978, lần ấy, dưới gốc cây bằng lăng trước hội trường lớn Mễ Trì (Đại học Tổng hợp Hà Nội), tôi đã tình cờ gặp Mai Quỳnh
Tôi còn nhớ ngày ấy, Mai Quỳnh
Tôi trân trọng những sáng tác gần như thuộc dạng đầu tay của ông. Hình như đó không chỉ là thơ, mà còn là mồ hôi, là nước mắt, là máu, là một phần đời của người lính nữa. Chưa kể, rất có thể đó còn là những đứa con tinh thần sau những lần vượt qua đạn bom và cái chết. Càng trân trọng hơn khi sau đó không lâu, ba bài thơ Ký ức Trường Sơn, Ngoài bưng có gì và Viết trong chiến hào của Mai Quỳnh
Thời điểm ấy, đăng được một bài thơ trên các báo, tạp chí lớn chuyên về văn học như Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, đối với một người làm thơ trẻ, thật chẳng dễ dàng gì. Về việc này, với riêng tôi, cũng có một chuyện khó quên. Chuyện xảy ra vào tháng 2/1978. Sau một thời gian trăn trở, kiếm tìm, thức khuya dậy sớm, tôi tích cóp được 10 bài thơ. Tôi thử “liều mình như chẳng có” đến gặp nhà thơ Vương Trọng ở số 4 Lý
Nhà thơ Vương Trọng tiếp tôi và bảo: “Khoảng 10 ngày nữa trở lại”. Đúng hẹn, tôi nhận được câu trả lời của nhà thơ đàn anh: “Trong chùm thơ Giang gửi, có một bài đăng được. Mình đã chọn và xếp vào số tháng 9”. Hay tin này, tôi mừng rơn. Nhưng phải đợi đến bảy tháng nữa tạp chí mới ra, thì quả là “một ngày dài hơn thế kỷ”.
Vậy mà khi tạp chí ra mắt bạn đọc, cái tên Giang của tôi lại bị in sai thành Giảng, thế mới chán chứ. Mặc dầu vậy, tôi vẫn quên buồn để vui và không hề có ý trách cứ ai. Sau này, vào năm 1982, trong Tuyển thơ Văn nghệ quân đội 25 năm, tên tác giả Bài thơ viết tiếp dưới gốc tràm lại vẫn in sai Đặng Huy Giang thành Đặng Huy Giảng.
Cho nên, việc Mai Quỳnh Nam có hẳn một chùm thơ đăng trên Tuần báo Văn nghệ vào năm 1978, làm cho cánh làm thơ sinh viên chúng tôi rất vui và có phần kính trọng, cho dù trước đó, vào năm 1972, Mai Quỳnh Nam đã có thơ đăng trên báo Văn nghệ và Văn nghệ Quân giải phóng rồi.
Vì lẽ ấy, trong cuốn sách Chiến trường sống và viết, nhà văn Nguyễn Trọng Oánh đã nhắc đến những người viết trẻ nhất của Văn nghệ Quân giải phóng, trong đó có Mai Quỳnh Nam.
2. Ai đã trải qua những năm 80 thế kỷ trước thì mới hiểu thế nào nỗi vất vả của đời sống, đặc biệt là đời sống của những người đã trót coi thơ là cái nghiệp. Tôi và Mai Quỳnh
Sau khi ra trường, thi thoảng chúng tôi vẫn tìm đến nhau. Ngày ấy, thường thì chọn một quán nước bên vỉa hè làm chỗ trú chân. Dăm chén nước chè, mấy vê thuốc lào, dăm cái kẹo lạc… cũng xong một cuộc vui. Và càng vui hơn khi bạn bè có thơ mới đọc cho nhau nghe.
Vào đầu năm 1980, Mai Quỳnh
Nếu thầy Mã Giang Lân - nhà thơ, nhà lý luận phê bình của chúng tôi coi thơ Mai Quỳnh
Mai Quỳnh
Có lẽ sau khi học xong cử nhân văn chương, về công tác ở Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, rồi làm nghiên cứu sinh chuyên ngành xã hội học chính trị ở Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô mà quan niệm về thơ ở Mai Quỳnh Nam mới có những chuyển biến như thế.
Và chỉ cần đọc tên các tập: Bước trượt (1995), Các sự việc rời rạc (2002), Phép thử thuật tư biện (2007), Biến thể khác (2012 ) cũng thấy rõ chất xã hội học đã ngấm vào thơ Mai Quỳnh
Tôi thích những câu thơ ám ảnh “Cả rừng lau trắng ngời/ trôi/ không luân hồi” trong Phép thử thuật tư biện và bài thơ Vũng nước trên đường trong Biến thể khác. Có lẽ ít ai có cái nhìn thật sâu, thật đa chiều và phức hợp như Mai Quỳnh
Vũng nước trên đường
như tấm gương
chôn sống mặt trời.
đứa trẻ đùa chơi
đạp nước tung tóe
một vết bẩn trên gót son thơ bé.
Còn Viết tiếp Freud thì không phải ai cũng nghĩ tới và viết được:
Vô thức vô thường phát tán xung năng
hữu thức lòng anh biến trời xanh thành ảm đạm
mây lang thang vô dáng vô hình
giống khách thể đời lay lắt phù sinh.
Mỗi một bài thơ, đối với Mai Quỳnh
May mắn được làm bạn với Mai Quỳnh
3. Mỗi day dứt về nguyên nhân và hệ lụy chiến tranh, thấu tỏ về thân phận con người trong tri thức triết học xã hội luôn là những băn khoăn, trăn trở, trong con người Mai Quỳnh
Mai Quỳnh
Sau thời gian làm nghiên cứu sinh tại Liên Xô, ông trở lại công tác và gắn bó với Viện Khoa học xã hội Việt
Ngoài nghiên cứu, ông còn tham gia giảng dạy và đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Thầy giáo Mai Quỳnh
Trong thời gian du học, ông gặp và kết hôn với bà Đặng Hoàng Phước Hiền, khi đó cũng đang làm nghiên cứu sinh tại Viện Sinh hóa Bakh, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, nơi Krôn chọn làm bối cảnh để viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Thao thức. Bà Đặng Hoàng Phước Hiền sinh ra trong một gia đình trí thức dòng dõi khoa bảng nhiều đời tại Diễn Châu, Nghệ An. Bà thuộc kiểu phụ nữ truyền thống, sống rất giản dị. Bà biết nhiều ngoại ngữ và am hiểu văn chương.
Con trai ông là Mai Đặng Hiền Quân theo “nghề của bố”. Năm 2007 Hiền Quân được nhận học bổng toàn phần hệ cử nhân tại Đại học Bates - trường đại học có chi phí đào tạo đắt nhất ở Mỹ. Năm 21 tuổi, Hiền Quân trở thành nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Vanderbilt với học bổng toàn phần và hiện là trợ lý biên tập Tạp chí Xã hội học Mỹ (American Sociological Review). Hiền Quân theo đuổi lĩnh vực học thuật còn chưa được nghiên cứu ở Việt
Sau xuân Quý Tỵ, tôi gặp lại thi sĩ, nhà xã hội học Mai Quỳnh
Còn với tôi, Mai Quỳnh