Joseph Pulitzer thành công nhờ quá đam mê
Trái tim nóng bỏng
Joseph Pulitzer sinh ngày 10/4/1847 tại thị trấn nhỏ Mako của
Năm 17 tuổi, Pulitzer bỗng nhiên cảm thấy thèm được sống đời người lính và đã thử đầu quân ở lần lượt ba quốc gia: Áo, Anh và Pháp. Tuy nhiên, vì thị lực và sức khỏe kém nên nhà báo tương lai đã không thực hiện được ước mơ xung trận của mình.
Thế mà, Joseph không nản chí và tìm mọi cách để gia nhập quân đội Mỹ. Tuy nhiên, hiện thực đã nhanh chóng làm cho Pulitzer cảm thấy chán chường với đời lính đánh thuê đến mức, ngay khi tàu chưa kịp cập bến Boston, anh đã ôm số tiền ứng trước của những người sang châu Âu tuyển mộ lính và nhảy ngay xuống biển bơi vào bờ. Tuy nhiên, “chạy giời không khỏi nắng”, Pulitzer vẫn phải khoác lên mình áo lính và bị sung vào biên chế Trung đoàn Kị binh số 1 của
Tại Saint Louis, nơi Pulitzer tá túc sau khi rời quân đội, cuộc sống của một kẻ nhập cư chẳng dễ chịu tí nào. Anh nói thạo tiếng Đức và tiếng Pháp nhưng lại rất kém tiếng Anh nên mãi không tìm ra được một việc làm tử tế, đành phải lúc thì đi dọn rác, lúc lại đi làm bồi bàn, rồi cả việc chăn súc vật nữa. Tuy nhiên, Pulitzer không nản chí, cứ rảnh rỗi là anh lại lên thư viện để nghiên cứu ngôn ngữ và luật.
![]() |
Vận may đã mỉm cười với Pulitzer trong phòng chơi cờ vua, nơi thỉnh thoảng anh ghé vào sau lúc đọc sách trên thư viện. Số phận của anh được định đoạt bởi một lời mách nước mà anh đã nói bên bàn cờ vua. Hai đấu thủ nghe lời khuyên của anh lúc đó lại là biên tập viên của báo Westliche Post in bằng tiếng Đức. Đánh giá cao sự sáng dạ của Pulitzer, họ mời anh tới tòa soạn cộng tác. Và, công việc làm báo đã khiến Pulitzer thành đạt nhanh tới mức, ở tuổi 25, anh đã là đồng sở hữu tờ Westliche Post.
“Bán chữ”, nếu chạy, luôn là nghề hái ra tiền. Tới năm 1878, Pulitzer cảm thấy mình đã đủ giàu có để lập gia đình. Người vợ tương lai là một thiếu nữ tới từ
Năm 1878, Pulitzer mua tờ báo St. Pouis Post-Dispatch và bắt đầu hành trình khổ ải vì nghề. James Barrett, người viết tiểu sử cho Pulitzer, khẳng định rằng, từ đó trở đi, Pulitzer “ngồi vào bàn làm việc từ sáng sớm cho tới nửa đêm, đôi khi còn muộn hơn, không bỏ sót bất cứ một chi tiết nào trong “đế chế” của mình”. Cho tới cuối đời, Pulitzer vẫn tuân thủ theo nguyên tắc của mình: Sống là phải làm việc say mê.
Đơn thương thẳng tiến
Để độc giả mua tờ báo của mình, Pulitzer thường xuyên tung ra những phóng sự điều tra táo bạo, hấp dẫn với những lời bình luận đầy ấn tượng. Ông viết về nạn tham nhũng, ăn hối lộ, những trò trốn thuế và về những tên trộm cướp “rách giời rơi xuống”... Những sự kiện nóng bỏng gây hứng thú vô biên đối với người đọc và số lượng phát hành của báo không ngừng gia tăng, đồng nghĩa với việc Pulitzer càng ngày càng trở nên giàu có.
Tuy nhiên, sự cống hiến quên mình cho công việc không phải là không gây ảnh hưởng xấu. Tới tuổi 35, Pulitzer đã bị giảm thị lực nghiêm trọng. Thế là ông đành cùng vợ về “lục địa cũ” tìm thầy chạy chữa mắt. Tuy nhiên, đi tàu hỏa tới
Nắm The New York World, Pulitzer thay đổi hẳn cách làm, nội dung và cả khổ báo. Ông đưa tờ báo này lên vị trí đầu bảng về chống tham nhũng trong nền chính trị Mỹ lúc đó. Cùng với những bài bản cũ mà ông đã từng sử dụng thành công ở tờ St. Pouis Post-Dispatch, khi làm The New York World, ông đã đưa ra thêm một số công thức mới: Trên các trang báo đã xuất hiện minh họa màu và những bài dài kỳ. Pulitzer còn rất chú trọng đến tính thời sự của các bài viết và tin. Chính The New York World là tờ báo đầu tiên đã miêu tả bức tượng mà người ta mãi không chở được từ Pháp sang Mỹ, bức tượng mà hiện giờ cả thế giới đều biết tới với cái tên Tượng thần Tự do.
Bốc đúng “bệnh” cho The New York World, Pulitzer không chỉ làm hồi sinh tờ báo này mà còn giúp nó sau 10 năm trở thành một trong những cơ quan báo chí hàng đầu của nước Mỹ thời đó với lượng phát hành lên tới 600 nghìn bản.
Những thay đổi ở The New York World dĩ nhiên không làm cho các ông chủ báo khác hài lòng. Pulitzer bị đố kị ở khắp mọi nơi, nhiều “đại gia” trong làng báo Mỹ thời đó đã tìm mọi cách để “chẹn họng” ông, kể cả chơi “võ bẩn”. Thí dụ, tờ The Sun còn bêu riếu xuất thân của ông, cho ông là một người Do Thái “mất gốc” (?!). Sau khi bài báo này ra đời, một thời gian dài, người gốc Do Thái sống ở
Làm một tờ báo hay đã mệt mỏi rồi, chống lại những kẻ không muốn mình làm được một tờ báo hay còn mệt mỏi hơn nữa. Sức khỏe của Pulitzer vì thế đã bị suy giảm nghiêm trọng. Năm 1890, ở tuổi 43, Pulitzer đành phải ngừng làm công tác biên tập báo và phải đi chữa bệnh ở những cơ sở y tế tốt nhất thế giới.
Tuy nhiên, mọi sự đã muộn. Hai mươi năm cuối đời, ông đành phải sống trong những căn hầm cách âm ở biệt thự của mình tại
Năm 1896, Pulitzer bắt buộc phải đích thân tiến hành cuộc chiến giành độc giả với William Randolph Hearst, chủ của ấn phẩm Journal cũng cực kỳ ăn khách và không nề hà ngay cả chuyện đưa các tin vịt. Trong bối cảnh đó, The
Cả hai đều lên tiếng yêu cầu chính phủ Mỹ phải tuyên chiến với Tây Ban Nha sau khi tàu chiến
Tuy nhiên, câu chuyện trên chỉ diễn ra trong 4 tháng. Sau đó, Pulitzer đã từ bỏ quan điểm làm báo theo cách mà bây giờ chúng ta gọi là “lá cải”. The New York World dần dà trở nên biết tự kiềm chế hơn và đứng về phía đảng Dân chủ.
Ngày 29/10/1911, trong lúc đang ở trên du thuyền, Pulitzer đã trút hơi thở cuối cùng. Trước đó, ông đã đọc cho thư ký chép lại câu mà ông coi là phương châm hành xử chủ yếu của mình trong nghề làm báo: “Chỉ có ý thức trách nhiệm chân thành nhất mới cứu được nghề báo khỏi rơi vào vị thế nô lệ trước giai cấp hữu sản, giai cấp luôn theo đuổi những mục tiêu ích kỷ và hoạt động chống lại lợi ích của xã hội”.
Sống cả sau khi chết
Ngay từ năm 1904, Pulitzer đã viết trong di chúc về việc để lại cho Trường Đại học Tổng hợp
Câu nói của Pulitzer cho tới hôm nay vẫn đáng để những người làm báo suy ngẫm: “Tôi suốt đời làm báo và tôi hiểu rằng, báo chí có ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ tới trí óc con người. Tôi muốn làm cho cái nghề này trở nên hấp dẫn đối với lớp trẻ mạnh về tinh thần và anh minh về trí tuệ, cũng như muốn giúp cho những ai đã chọn nghề làm báo có được những phẩm chất đạo đức và nghiệp vụ cao”