Hoàng đế Quang Trung giúp dân dựng nước xiết bao công trình

Thứ Ba, 22/07/2014, 10:06

“Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!”

(Ai tư vãn - Bắc cung Hoàng hậu Ngọc Hân)

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hiếm có một anh hùng nào như Hoàng đế Quang Trung, xuất thân áo vải, cả đời chinh chiến, danh vang bốn biển, đánh giặc lập nước, tôn vinh văn hiến, khuyến học khuyến tài, những bậc quốc sĩ danh thần cảm phục uy danh theo về giúp rập. Đặc biệt, trong hai lần đại phá quân Xiêm La và quân Thanh, ông đã bằng tài năng quân sự thiên bẩm của mình, đánh cho lũ giặc phía nam, phía bắc phải kinh hồn táng đởm.

Ông từng hào sảng tuyên ngôn trong Chiếu xuất quân khích lệ tướng sĩ khi hành binh ra Bắc đánh tan 29 vạn quân Thanh:

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Sử gia Trần Trọng Kim, khi bàn về Hoàng đế Quang Trung, đã viết: “Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng, nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiếp thì thật khác thường”.

Hoàng đế Quang Trung trong hàng loạt các chiến công lừng lẫy thì đại thắng 29 vạn quân Thanh năm Kỷ Dậu là võ công chói lọi nhất, thể hiện đầy đủ phẩm chất thiên tài quân sự toàn diện nhất, cũng là một trong những võ công mà lũ giặc phương Bắc mỗi khi nhắc đến khiếp phục nhất.

Lê Chiêu Thống cùng đường chạy sang Trung Quốc, cầu viện hoàng đế nhà Thanh. Cuối năm 1788, với dã tâm muốn cướp nước ta, Hoàng đế Mãn Thanh - Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa “phù Lê”, vào chiếm đóng Thăng Long. Nguyễn Huệ, khi ấy còn là Bắc Bình Vương đã sớm tiên liệu cuộc xâm lược này và có kế sách để đánh bại chúng.

Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về Tam Điệp - Biện Sơn chờ lệnh. Cuộc rút lui chiến lược này là một nước cờ cao diệu của các danh thần danh tướng Tây Sơn. Nó cho thấy Đại Việt ta từ xưa đến nay, hễ khi nào giặc phương Bắc xuống đánh cướp thì những bậc hiền tài luôn có cách xử lý rất linh hoạt kịp thời, tạo thế, bày mưu để tiếp đó giáng cho chúng những đòn đích đáng. Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc. Để lấy danh nghĩa chính thống, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung. Các tướng soái, đặc biệt là nhân dân trong cả nước vô cùng phấn chấn ủng hộ Hoàng đế Quang Trung.

Ngày 29 tháng 11, đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó 10 ngày để tuyển quân, củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, đặc biệt có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung mệnh lệnh tiến quân ra Bắc Hà.

Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long. Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía Tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía Nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía Nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía Bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.

Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn, có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa.

Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Thăng Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết. Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây Sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu phao khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy.

Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có một bóng người. Sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.

Yếu tố bất ngờ trong chiến thuật của Hoàng đế Quang Trung luôn khiến quân Thanh lâm vào thế bị động. Bất ngờ chiến lược mà ông giành được là đánh địch ở không gian và thời gian do mình lựa chọn. Đầu tiên là việc ra quân thần tốc. Quân Tây Sơn hành quân quá nhanh tới Tam Điệp ngay từ trước Tết nguyên đán buộc Nghị phải thay đổi kế hoạch. Từ chủ định tấn công, Nghị không kịp điều quân thực hiện ý định đó mà phải phòng thủ chờ quân Tây Sơn đến.

Trong suốt cuộc hành quân Bắc tiến, đạo quân chủ lực do đích thân Quang Trung chỉ huy chính là đạo quân giao chiến nhiều nhất, liên tiếp hạ các đồn. Việc Quang Trung hành quân nhanh và hạ các đồn tiền tuyến quá mau lẹ khiến quân Thanh ở Ngọc Hồi bị động, không dám chủ động tác chiến. Nhưng đó chính là điều biến ảo nhất trong chiến thuật quân sự của Quang Trung tại lần Bắc tiến này.

Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó của Tây Sơn trong một bài thơ:

Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới,
Như trên trời xuống dám ai đương
Một trận rồng lửa giặc tan tành,
Bỏ thành cướp đò trốn cho nhanh
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
Mây tạnh mù tan trời lại sáng
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
“Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”.

Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ còn là nhà ngoại giao xuất sắc đã tạo ra những bước ngoặt lịch sử, mềm dẻo nhưng cương quyết, những sách lược khôn khéo, chính nghĩa, đanh thép, giữ vững chủ quyền, tạo thế nước bằng những chính sách ngoại giao đặc biệt.

Ngay từ khi kéo quân đến Tam Điệp trên đường ra Thăng Long đánh quân Thanh, Vua Quang Trung đã tính đến việc giảng hòa với nhà Thanh sau khi thắng trận. Khi kéo quân vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cấm giết bại binh Thanh. Nhà vua lại cho phép quân Thanh được ra thú. Nhờ chính sách khoan hồng này, số quân Thanh được giải về Thăng Long có đến hàng ngàn người, họ được cấp lương ăn, quần áo mặc. Trước khi trao trả cho nhà Thanh, vua Quang Trung ra một tờ chiếu dụ chúng, với lời lẽ chính nghĩa đanh thép, đầy tự hào mà chí tình chí lý:

“Việc quân là cái độc của thiên hạ.
Gặp giặc thì giết, lẽ đó là thường.
Bắt được mà tha, xưa chưa từng có.

Trẫm theo lẽ trời và thuận lòng người, nhân thời cách mệnh, lấy việc binh nhung mà định thiên hạ. Việc Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nhà các ngươi sức hèn tài mọn, không biết tự lượng, đem hai mươi chín vạn quân sang cửa quan, vượt suối trèo non, vô cớ xông vào chỗ hiểm nguy để gây binh hấn, khiến cho các ngươi, một lũ dân đen vô tội phải nằm sương gối tuyết và chết ở hòn đạn mũi tên. Đó là tội của Tổng đốc nhà các ngươi. Trẫm trỏ cờ lệnh, chỉ trong một trận, quét sạch các ngươi như kiến cỏ; kẻ đã chết trận xương chất thành núi. Những kẻ trận tiền bị bắt, hoặc thế bách xin hàng, đáng lẽ phải thiết quân luật mà chém ở pháp trường. Song vì thể tấm lòng hiếu sinh của thượng đế và lấy tấm lòng bao dung, trẫm tha tính mạng cho các ngươi và cho các ngươi được sung vào các hàng quân hoặc cấp lương cho, để các ngươi khỏi bị khổ kẹp cùm, đánh đập.

Đấng vương giả coi bốn bể như một nhà, các ngươi nên thể lòng trẫm mà bỏ sự ngờ sợ để báo ơn trẫm”.

Nhân dân Việt Nam luôn tự hào ghi nhận ông là người anh hùng áo vải dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Hiện nay, nhiều tên phố, tên đường khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được mang tên ông, nhiều tượng đài, bảo tàng, đình đền thờ tự người anh hùng áo vải

Phùng Văn Khai
.
.