Danh nhân Phùng Khắc Khoan: Nôm na đồng áng Kẻ Bùng

Thứ Sáu, 09/11/2012, 14:00

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan sinh năm Mậu Tí (1528), mất năm Quý Sửu (1613), đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Canh Thìn (1580) thời Lê - Trịnh. Cuộc đời làm quan của Phùng Khắc Khoan khá thăng trầm nhưng luôn thể hiện sự liêm chính cương trực vì nước vì dân, được các đồng liêu nể phục, các đời vua trọng dụng.

Phùng Khắc Khoan làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư, Quốc Tử Giám tế tửu, từng làm Chánh sứ sang Bắc quốc (1597-1598). Trạng Bùng nổi tiếng với thơ văn thần thông của mình khi đi sứ. Tại kinh đô nhà Minh, khi giao thiệp với vua tôi phương Bắc, các sứ thần Nhật Bản, Triều Tiên… vô cùng kính nể tài thơ và tài biện bác của Trạng Bùng.

Phùng Khắc Khoan nổi tiếng là một lương thần, một danh nho thi sĩ, một nhà ngoại giao tài giỏi. Trước tác Phùng Khắc Khoan để lại xứng đáng tầm vóc một tác gia lớn của nền văn học sử Việt Nam. Tác phẩm còn lại của Phùng Khắc Khoan hiện nay tiêu biểu là bốn tập thơ chữ Hán: Ngôn chí thi tập, Huấn đồng thi tập, Đa thức tập, Mai lĩnh sứ hoa thi tập. Chỉ riêng với bốn tập thơ trên đã khẳng định và tôn vinh tầm vóc Phùng Khắc Khoan, danh nhân thi sĩ từng được nhân dân yêu mến phong tặng là Trạng Bùng.

Vang danh với tư cách danh nho thi sĩ, ông còn vang danh với tài ngoại giao khiến Bắc quốc phải vị nể, truyền tụng và tôn xưng quan Trạng. Trong các cuộc đi sứ Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), Phùng Khắc Khoan, bằng tài năng và khí tiết của mình, đã làm rạng danh đất nước, sứ thần các nước như Triều Tiên, Nhật Bản… đều kính phục tài năng, khí phách của Chánh sứ họ Phùng. Các vị học giả lớn như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú trong Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại chí khi khảo cứu về lịch sử bang giao của nước ta đều đánh giá cao sự nghiệp ngoại giao của Trạng Bùng.

Mảng văn chương bang giao vệ quốc của Trạng Bùng khi đi sứ phương Bắc cũng rất đặc sắc. Đây đồng thời cũng là những cống hiến lớn của Phùng Khắc Khoan trên mặt trận ngoại giao. Lê Quý Đôn, một bậc lương thần, đồng thời cũng là một sứ thần nổi tiếng thời sau, khi bàn về việc này đã viết: “Phùng Khắc Khoan phụng mệnh đi sứ, tuổi đã ngoài 70, không những biện bạch quang minh chính đại, đạo đạt được mệnh lệnh của vua, làm mạnh mẽ được thể chế trong nước, đến như 30 vần thơ dâng mừng thánh tiết và hơn 10 vần thơ đáp lại chánh phó sứ nước Triều Tiên, Nhật Bản tài tứ chứa chan, cách điệu tươi đẹp, y như lúc còn trẻ tuổi. Như thế chả phải là được linh khí núi sông giúp đỡ đấy ư?”.

Cũng như bao người con Việt Nam bình dị khác khi rời đất nước mình, dù mang trọng trách bang giao, cũng không ít lúc con người ta chạnh nhớ về đất nước:

…Trăng biết nỗi lòng, nghìn dặm chiếu
Chuông khua giấc mộng, mấy canh rung
Tuyết tan phương bắc, vầng hồng chuyển
Dạ nhớ trời Nam, mây trắng giong…

(Ở công quán, đêm đông hoài cảm)

Lê Ngô Cát, trong Đại Nam quốc sử diễn ca đã viết:

Phùng Khoan sứ tiết cũng già
Biểu Từ biên chiết thật đà thiết minh
Mấy lời ôn du đinh ninh
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày.

Theo các nguồn sử liệu, đoàn sứ bộ do Phùng Khắc Khoan dẫn đầu sang Yên Kinh mới đầu không được triều đình nhà Minh đón tiếp đã phải chờ đợi ở công quán. Trong thời gian ở công quán, Chánh sứ Phùng Khắc Khoan đã bằng tài năng và trí tuệ của mình, đặt các mối quan hệ thân thiết với các đại học sĩ, quan lớn nhà Minh mà tiêu biểu là Thái tử Thái bảo Trương Vị, một đại học sĩ lừng danh, thầy dạy của Thái tử nhà Minh đương thời. Phùng Khắc Khoan còn đặt quan hệ với các Đoàn sứ bộ Triều Tiên, Nhật Bản. Các chánh, phó sứ các nước, đặc biệt là Đại học sĩ Trương Vịnh rất kính trọng tài năng, nhất là tài thơ phú của Phùng tiên sinh.

Ngay như vua Minh Thần Tông, sau khi thẩm định thơ văn trong tập Vạn thọ thánh tiết của Phùng Chánh sứ đã hết lời khen ngợi là bậc hiền tài, trung hậu, khí tiết, ôn hoà… và lập tức hạ mệnh lệnh khắc in hàng vạn bản lưu hành khắp đất nước. Nhà Minh chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với triều Lê. Đây là một thành công vang dội hiếm thấy trên mặt trận ngoại giao đối với phương Bắc trong thời điểm ấy.

Thành công của chuyến đi sứ đầy gian khổ đã khẳng định vị thế và tài năng của danh nho thi sĩ Phùng Khắc Khoan. Triều đình nhà Lê cử một đoàn nghi lễ trang nghiêm lên biên giới đón đoàn đi sứ. Phùng Khắc Khoan được phong từ Công bộ Tả Thị lang lên Lại bộ Tả Thị lang tước Mai Lĩnh Hầu. Phùng Khắc Khoan được cả triều đình kính trọng. Thành tổ Trịnh Tùng từ đấy luôn gọi là Phùng tiên sinh chứ không nhắc đến tên để tỏ lòng quý trọng. Người trong nước đều gọi là Trạng Nguyên. Danh hiệu Trạng Bùng của Phùng Khắc Khoan được lưu hành từ sau chuyến đi sứ phương Bắc ấy.

Thơ văn Phùng Khắc Khoan thể hiện rõ tâm trạng chung của tầng lớp trí thức đương thời, mong muốn được cống hiến, nhập cuộc để vực kỷ cương, xây đạo đức, trị loạn, an dân mà nổi bật là lý tưởng “Vua thánh tôi hiền, thái bình thịnh trị”. Từ những bài thơ đầu tiên khi còn là một thiếu niên, Phùng Khắc Khoan đã sớm bộc lộ ý chí của mình: Nam nhi tự hữu hiển tượng sự/ Khẳng tác ngang tàng nhất trượng phu (Tự thuật). Cái khẳng khái của thân trai muốn nêu tiếng thơm, vẻ vang cho cha mẹ, tổ tông ấy dường như là tư duy xuyên suốt thơ văn của Trạng Bùng. Trong bài Khiển muộn (Giải buồn) Phùng Khắc Khoan thẳng thắn tỏ chí:

Bụi nhơ quét sạch đời yên tĩnh
Binh giáp mang theo chí quật cường
Cơ hội đáng làm như có gặp
Công thành hồ dễ kém Trương Lương!

Những bài thơ ông viết khi tuổi cao vẫn giữ trọn cái cốt cách, khí khái cao rộng ấy:

Bình sinh chính trực trung thành
Tráng chí cao huyền nhật nguyệt minh.

Tạm dịch:

Đời ta chính trực lại trung thành
Tráng chí treo cao rỡ ràng như mặt trăng mặt trời toả sáng. 

(Bệnh trung thư hoài)

Trong lịch sử văn học nước ta có những nhà Nho đỗ đại khoa, giỏi về văn chương trường ốc nhưng trong lĩnh vực thơ ca, rất xứng danh thi sĩ. Trường hợp Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan là một ví dụ hiển nhiên. Thơ ông là thơ thực chất, vượt xa thơ khuôn sáo nhà trường, càng vượt xa thứ thơ thù tạc phù phiếm của một số khá đông nhà nho làm thơ để lấp cái trống rỗng của thời gian. Thơ ông dung hòa được những mặt dường như đối lập nhau: Nhập thế và xuất thế, hành động và tiêu tao, hiện thực và lãng mạn, bác học và dân gian…

Là một mệnh quan triều đình, Phùng Khắc Khoan không những thấu hiểu mọi ràng buộc, thâm trầm trong chốn triều chính mà ông còn luôn mở lòng hướng đến nhân dân. Trong cuộc đời làm quan 50 năm của mình, ông được biết đến với những đóng góp quan trọng trong chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa được nhân dân hết sức ngưỡng mộ. Sau này, nhiều giai thoại dân gian cũng từ đó mà sinh ra.

Sinh thời, ông rất quan tâm đến nông nghiệp, thủy lợi, thời tiết, mùa màng. Ông luôn luôn mong mỏi: “Mùa màng tươi tốt, các loại lúa bội thu; Cấp túc cho người già cả ở thôn làng thêm tuổi thọ”. Tấm lòng ông là tấm lòng lo cho dân từ hạt gạo, cọng rau để từ ấy mà sửa sang chính sự, bồi dưỡng gốc nước. Tấm lòng vì nước vì dân ấy được thể hiện nôm na giản dị khôn cùng, cho thấy sự hòa đồng, thấu hiểu từ những gì nhỏ nhất, đời thường nhất:

- Trồng dưa chớ để mùa qua
Ngăn phên mắt cáo kẻo gà đạp kê
Quanh vườn thả giậu sừng dê
Mướp trâu dưa chuột bốn bề leo dong
- Già răm cho húng phải lui
Măng ếch lá lốt hợp mùi xương xông…

Trong các nguồn suối dưỡng hồn thơ Phùng Khắc Khoan phải kể đến một nguồn quan trọng bậc nhất là nguồn dân gian, dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông tinh luyện đến mức trong cuộc bang giao, thơ ông đã được Vua nhà Minh khâm phục và khen rằng: “Hà địa bất sinh tài” (Đất nào mà chẳng có người tài). Tuy nhiên không vì giỏi Hán học mà ông coi nhẹ tiếng Nôm, tiếng mẹ đẻ. Về thơ Nôm, ông còn để lại cho chúng ta một bài thơ dài rất độc đáo, rất tâm huyết, có thể coi như một bản trường ca viết về con người với thiên nhiên, con người tạo dựng thiên nhiên. Trường ca này có nhan đề là Lâm tuyền vãn.

Trong hoàn cảnh bị Triều đình biếm đi đày, ông lại tìm ra cái thú lâm rừng suối ở nơi lưu đày, thậm chí coi nơi đó là “Đào nguyên” thì đó là biểu hiện bản chất và bản lĩnh khác thường của một thi sĩ - danh nho:

Vô sự là tiểu thần tiên
Gẫm xem ngoại thú lâm tuyền cực vui!

Thơ văn với Phùng Khắc Khoan không chỉ để bộc lộ chí hướng, hành đạo mà còn là chỗ để ông cởi mở tâm tình, hòa nhập với thiên nhiên, hòa nhập với nhân dân. Trong thơ ông, con người và thiên nhiên luôn hài hòa, nhịp nhàng, rất tinh tế nhưng cũng rất sẻ chia, trước sau như một. Thơ phong cảnh của ông có những bài đã đạt tới sự tinh tế:

Đỉnh non cao ngất lâu đài,
Một bầu thế giới tuyệt vời ở trong.
Nghìn năm, xuân chẳng tận cùng,
Bốn mùa, hoa vẫn ngát lừng hương bay.
Bụi không vương mảnh đất này,
Trời mênh mông để tháng ngày dài thêm
Có đường lên đến cõi tiên,
Can chi mà phải hỏi phiền chàng Lưu.

(Lên chùa Phát Am)

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, một danh nhân đặc biệt. Ông thành danh ở nhiều lĩnh vực. Riêng với thơ ca, trong đó có mảng thơ ca bang giao vệ quốc hưng dân, ông có những đóng góp không nhỏ. Năm tháng thời gian đi qua, lớp hậu thế càng trân trọng và đồng cảm với văn chương và những đóng góp trên mặt trận ngoại giao của ông. Tình cảm của nhân dân quê hương với thi sĩ họ Phùng ngày càng nồng đượm. Từ một trí thức biết chọn đúng đường; từ một học trò tự học, được học các bậc danh nho biết xuất xử, tiến lui, công danh, tiết tháo đủ đầy; từ một người con bình dị Kẻ Bùng, Phùng Khắc Khoan dần khẳng định mình nơi trung tâm quyền lực, làm rường cột quốc gia, trọng thần của triều đình trải mấy triều vua chúa, không chỉ lẫy lừng trong nước mà còn vang danh Bắc quốc, lân bang đủ cho thấy tài năng và đức độ của Phùng Khắc Khoan quả là hiếm có vậy.

Xin được kết thúc bài viết nhỏ này bằng bài thơ:

TRƯỚC LĂNG CỤ TRẠNG

… Người có đức để cháu con phúc đức
Chữ nghĩa muôn đời chữ nghĩa của cha ông…

Sinh từ mẹ từ cha
Sinh từ trời từ đất
Rường cột trải mấy triều
Mềm mại, cương cường, bất khuất
Mà nôm na đồng áng Kẻ Bùng.

Ngẩng đầu mây trắng Tản Viên Sơn
Cúi nâng phù sa sông Hồng ứa đỏ
Kẻ Nủa kia, sử xanh kia còn đó
Mộ đá ong giản dị nhường này…

Mấy trăm năm xanh cỏ xanh cây
Mây Kẻ Bùng dường bay dường thanh thản.

Cảm hoá kẻ thù ấm tay bầu bạn
Câu thơ đề xuyên mấy trăm năm
Lời thơ dâng bát ngát trăng rằm
Trung Hoa mênh mông, Trung Hoa thán phục.

Phơ tóc trắng vóc mai mình hạc
Mà mấy nghìn dặm đất nhẹ như không
Mà Quốc thể rạng danh con Lạc cháu Hồng
Dân mấy cõi tụng xưng Quan Trạng…

“Vẻ mặt Người nôm na đồng áng
Ta vẫn gặp đâu đây trong thôn xóm Kẻ Bùng”

Phùng Văn Khai
.
.