Cụ Huỳnh Thúc Kháng: Nhà nho lo viêc an ninh
Sinh ra trên mảnh đất “Quảng Nam hay cãi”, Cụ suốt đời trung trinh gìn giữ tiết tháo của một nhà nho chân chính chỉ biết lấy lợi quyền của người lao động là mục tiêu hành sự. Nhà nghèo nhưng thông minh, lại cần cù, chăm chỉ, nên Cụ thi đỗ cao từ khá sớm: 24 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương; 28 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hội. Cụ cùng với Trần Quý Cáp, Nguyễn Đình Hiến và Phạm Liệu được truyền tụng là “tứ hổ” của tỉnh “chưa mưa đã thấm” thời đó vì tài cao và học rộng...
Theo lời nhận xét của nhà văn Thiếu Sơn: “Cụ Huỳnh không bao giờ để cho mình cao hơn người, không tự tôn và cũng không tự ti, không từ chối những việc tầm thường nhưng xét ra có ích cho mình và cho người”. Tây Hồ Phan Chu Trinh từng viết tặng cụ Huỳnh: “Khách lai vô thoại chỉ đam thư” (Khách đến không nói chỉ mê sách).
Bản thân Cụ cũng có lần thổ lộ: “Tôi, một anh học trò gốc sinh trưởng nhà nông nghèo trong thôn quê, đã là cái hoàn cảnh phác dã, thô vụng, khô khan, quê kệch, gia dĩ đặc tính trời phú ham mê về sự học, nửa đời người tôi, ngoài cái văn thơ sách vở ra, gần như không có gì gọi là “mỹ cảm”. Bởi vậy, trong bạn lứa anh em đồng thời với tôi... thường có lời nhạo tôi là “lão phác”…”.
Nói vậy nhưng cụ Huỳnh ngay từ trẻ đã nổi tiếng là người phong nhã. Hồn thơ của cụ cũng có xu hướng trữ tình nhưng giống như những chí sĩ ở mọi thời, cụ thường chỉ viết thơ để bộc lộ tâm sự mẫn thế ưu thời của mình. Theo quan niệm của cụ, một sĩ phu chân chính lúc nước mất nhà tan thì không thể nào an tâm thưởng hoa vọng nguyệt được...
Suốt đời theo đạo học làm người
Học, học nữa, học mãi - Cụ Huỳnh có lẽ cũng là người sống theo ý tưởng này. Nhưng với Cụ, học để làm gì? Trong một bài đăng trên báo Tiếng dân mà Cụ đã lập ra, Cụ viết: “Có một câu vắn tắt mà có thể bao bao quát được toàn thể và công dụng của sự học là: Học để làm người!”.
Cụ lý giải: “Cái học làm người này, nói về học khóa cần thiết thì người thông thường ai cũng có thể theo sức lực cùng bản năng của mình mà làm hết phận sự; mà nói đến chỗ cao điệu thì dầu thánh hiền hào kiệt cũng không ai dám tự phụ, rằng đã làm được hoàn toàn cực điểm. Bởi vì, đã làm “người” thì ai cũng là người, mà nói đến sự làm người thì rất là mênh mông mà không có hạn lượng.
Trăm năm ngắn ngủi, già trẻ lớn bé đều phải chết không cái gì mới lạ. Song, kẻ thì thánh hiền hào kiệt, kẻ thì ngu tiện dung phàm; người thì có công với nhân loại, người lại hại giống hại nòi…
Cảnh địa của người trăm chiều không đồng nhau thì cái cách làm người cho xứng đáng thích hợp cũng không phải cùng một cách. Những chuyện mấy bậc vĩ nhân đông tây xưa nay, biết bao nhiêu điều đủ làm gương cho người sau học theo mà người nào cũng có chân tướng người nấy, mỗi người dạy cho người sau một việc; bắt chước được một việc thì dầu ai đọc thuộc trăm nghìn quyển sách cũng chẳng hơn chi”.
Quan niệm như thế nên khi đỗ đạt, Cụ lại không chịu ra làm quan với triều đình phong kiến hay chính quyền thực dân mà chỉ thích giao du với các sĩ phu cùng tâm sự để hun đúc cái tinh thần yêu nước thương nòi trong cái thời đại quá nhiều tai ương lúc đó.
Cụ Huỳnh đã đi từ tư tưởng đấu tranh ôn hòa tới mấp mé bạo động. Và thế là năm 1908, Cụ bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo sau khi cuộc cự sưu ở các tỉnh miền Trung bùng nổ rầm rộ. 13 năm đi đày là 13 năm Cụ rèn thêm những suy tư về vận mệnh đất nước và dân tộc. Cụ sống cũng như viết, luôn trung trinh và son sắt, không chịu để cho những nhục hình cực khổ bẻ gãy ý chí sĩ phu của mình:
“Dù đến lúc núi sập, biển lồi, trời nghiêng đất ngả;
Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn.
Trăng kia khuyết đó lại tròn!”.
(Bài hát lưu biệt)
Năm 1921, ra khỏi tù, cụ Huỳnh vẫn giữ nguyên tiết tháo nhà nho và không nhận bất cứ lời mời làm quan chức nào. Chỉ khi Viện dân biểu Trung Kỳ được lập ra, Cụ mới chịu ra ứng cử ở huyện Tam Kỳ (Quảng Nam) để có thể đấu tranh hợp pháp vì quyền lợi của nhân dân trên diễn đàn mà chế độ thực dân buộc phải để cho tồn tại.--PageBreak--
Tất nhiên, cách suy nghĩ có phần ảo tưởng này đối với chủ nghĩa thực dân cũ về sau đã được chính cụ Huỳnh hiểu ra và cụ đã xin từ chức Viện trưởng Viện dân biểu Trung Kỳ năm 1928 sau khi thẳng thắn tố cáo chính quyền thực dân chỉ dân chủ giả hiệu chứ không thực tâm muốn làm điều tốt lành cho người Việt. Và cụ đã lập ra tờ báo Tiếng dân, tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Trung Kỳ, để tiếp tục cái chí vì dân vì nước của mình.
Từ đó cho tới khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Cụ Huỳnh đã buộc phải án binh bất động trong tâm sự nhiều khi bất đắc chí của mình.
Tri nhân, tri kỷ
Có thể hình dung được tâm trạng hân hoan của Cụ khi Cách mạng Tháng Tám thành công: “Sướng ơi là sướng! Thoát thân nô mà làm chủ nhân ông. Vui thật là vui! Đổi quyền vua làm dân quốc mới” - Đó là tâm sự của cụ Huỳnh trong mùa thu 60 năm trước.
Trong lễ kỷ niệm lần thứ 5 ngày cụ Phan Bội Châu tạ thế (29/10/1945) ở Huế, cụ Huỳnh nói: “Ất Dậu trước đến Ất Dậu này thực khác xa. Trước là kinh thành thất thủ, là mất nước; nay là cách mạng, là giải phóng...”.
Trước sau như một, cụ Huỳnh vẫn chủ trương đại đoàn kết quốc dân cho sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Hiểu rõ tâm sự của cụ Huỳnh, trong giai đoạn đất nước phải đối mặt với nguy cơ ngoại xâm mới, Bác Hồ đã đại diện cho Chính phủ Liên hiệp gửi điện mời cụ Huỳnh ra Hà Nội tham gia chính quyền mới.
Khi được Bác mời ra Hà Nội tham gia chính quyền mới, vốn mến mộ danh tiếng nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, cụ Huỳnh dù tuổi đã cao nhưng vẫn đồng ý ra Bắc chỉ để gặp người tri kỷ mà mình đã mến mộ. Nhận rõ thời điểm “quốc gia hữu sự”, Cụ Huỳnh đã đồng ý làm người lãnh đạo chính thức của Bộ Nội vụ (tiền thân của Bộ Công an) trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Theo lời tường thuật của Báo Sự thật trong số ra ngày 7/3/1946, lễ ra mắt Hội đồng chính phủ cách mạng khi ấy đã diễn ra như sau:
“Lần đầu tiên Cụ Huỳnh Thúc Kháng ra mắt quốc dân trước tiếng hoan hô vang dậy của hàng vạn đồng bào ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Lần đầu tiên quần chúng được mắt thấy tai nghe nhà chí sĩ lão thành vẫn hằng ngưỡng mộ. Cụ già yếu quá, nhưng giọng nói sang sảng ấy, điệu bộ hăng hái ấy là của thanh niên.
Lòng nhà chí sĩ bị xúc động quá mạnh trước cảnh đồng bào sum họp đoàn kết thân mật, trước vận hội mới của nước nhà. Khi Cụ nói lên cái chí căm thù giặc Pháp suốt đời nung nấu tâm can Cụ, mọi người thấy truyền vào tất cả sĩ khí trầm hùng của thời xuân. Ai quên được buổi ấy, hình ảnh Hồ Chủ tịch cảm động ôm chầm lấy Cụ, hình ảnh hai người bạn già tương ái”.
Khi thực hiện phận sự của một Bộ trưởng Nội vụ chế độ mới, cụ Huỳnh đã không ngần ngại thẳng thắn vạch mặt những thế lực phản động vì lợi riêng, ích kỷ mà cố tình “chọc gậy bánh xe”, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Cụ đích thân đứng ra làm sáng lập viên và Hội trưởng Hội liên hiệp quốc dân Việt
Tháng 6/1946, khi Bác Hồ đi thăm nước Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp, Bác đã cử cụ Huỳnh làm quyền Chủ tịch nước và nói: “Tôi có việc phải đi, mọi việc ở nhà đều có Cụ” rồi trao cho Cụ tấm thiếp có ghi sáu chữ “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Nhà nho khi làm công tác an ninh và trị quốc đã hành xử rất nghiêm ngắn và kiên quyết. Chính Cụ là người khi hiểu rõ bộ mặt thật của bọn Quốc dân đảng phản động đã chỉ thị cho cấp dưới xử trí nghiêm khắc những kẻ mạo danh thừa kế sự nghiệp của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, nhưng thực ra lại toàn làm những việc phản dân hại nước.
Khi kháng chiến bùng nổ, cụ Huỳnh với tư cách Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt
“Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước đã được độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc không được gặp Cụ lần cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân lên đường vinh quang hạnh phúc. Chào vĩnh quyết”...
Hôm ấy là ngày 21/7/1947