Ngô Kha, người đãng trí dấn thân
1. “Bây giờ tôi mang hoa đến dòng sông/ Đọc diễn văn truy tặng người đãng trí...”.
Bao nhiêu lứa học trò các trường Quốc học, Hàm Nghi, Hưng Đạo, Nguyên Du (Huế) năm xưa của thầy Ngô Kha cứ mỗi lần vịn vai cầu Bến Ngự, nhìn sông An Cựu tím dần trong chiều sương khói, lại rơm rớm nước mắt, lặng đọc những câu thơ của người thầy thân yêu mở đầu bản trường ca bí ẩn Ngụ ngôn của người đãng trí.
Rồi họ cùng ôn lại những ngày biểu tình đòi chính quyền “trả thầy giáo Ngô Kha lại cho chúng tôi”, hô vang khẩu hiệu “đả đảo bọn ăn cướp thầy” vào tháng 3 năm 1973, sau khi thầy bị bắt lần thứ hai.
Một ngày đầu tháng 2 năm 1973 ấy, ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết, khi thầy Ngô Kha đang ở nhà với người mẹ già Cao Thị Uẩn, một toán mật vụ nhảy xuống xe, bắt “nhà thơ đãng trí” tống lên xe chạy như bay về nhà lao Thừa Phủ...
Chờ mãi không thấy con về, 20 tháng sau, ngày 25-13-1974, bà Cao Thị Uẩn, lúc này đã 80 tuổi, đã viết lá thư đòi lại con mình, thống thiết gửi đến tổng thống VNCH, nhưng không được trả lời.
Bức thư có đoạn: “Tôi nay đã 80 tuổi, không còn sống được bao nhiêu năm. Buồn vì con trai đã chết trong vụ tết Mậu Thân ở Huế, chỉ còn nương tựa vào đứa con trai duy nhất là Ngô Kha, nay cũng bị chính quyền bắt giữ không cho biết tin tức, tôi làm sao sống nổi...”.
Ngô Kha ơi, sau cú bắt bớ tàn nhẫn ấy, trong tù ngục bọn dã man đã hành hạ thầy như thế nào? Không ai hay biết. Tại sao chúng bí mật giết thầy? Chúng giết thầy ngày nào, giờ nào? Không ai hay biết. Chúng chôn thầy ở mô? Không ai hay biết.
Ôi, một tài năng thơ ca ở tuổi 38 đang nở rộ, một chiến sĩ luôn dấn thân cho hòa bình đã bị thủ tiêu, không một nén nhang, không một dòng điếu văn, không một cỗ quan tài, không ngày giỗ chạp, không có mộ chí! Sao phận người lại mong manh và trớ trêu như ngụ ngôn vậy?
Bây giờ, thân xác thầy đã thấm vào đất trời Huế, hòa tan vào cõi hư vô xanh thẳm. “Cơn bão cuốn tôi đi mờ mịt/ Chúng tôi ra khỏi vùng phán xét của loài người”. (Ngụ ngôn người đãng trí).
Nhưng thầy vẫn như hiện hữu từng ngày với những con đường, con đò, dòng sông và hàng cây long não Huế. Gia đình, bạn bè thắp nhang khấn hương hồn thầy, rồi xin lấy ngày cuối năm âm lịch làm ngày giỗ Ngô Kha. Tới ngày khai trường, bọn học trò lại tụ tập về bên sông Hương, nâng chén rượu, đọc thơ nhớ thầy và đọc Ngụ ngôn của người đãng trí:
“và than đá đã thức dậy
nghe gỗ hương nói thì thầm
những hạt cơm đen của mùa đông”.
2. Thơ Ngô Kha là nỗi cô đơn trên cuộc hành trình dằng dặc đi tìm chính mình. Hoa cô độc, tên tập thơ đầu tay, cũng chính là hình tượng triết học lay động, là phát hiện của Ngô Kha, được một thế hệ trí thức trẻ Huế những năm 60 của thế kỷ trước dùng để gọi tên một miền cảm thức siêu hình như làn gió mới thổi về.
Bản thể con người là sự đơn chiếc, cô độc là hoa của kiếp người. Khi “bơ vơ” nhìn thấy cái bóng đơn chiếc của mình trong đêm vũ trụ, chính là lúc con người đạt đến sự “ngộ” (chữ Phật). Đó cũng là lúc con người đến được với tâm linh, đến được với cái tôi vĩnh cửu.
“Ngô Kha đã phát hiện ra trên cánh đồng hắt hiu của linh hồn chàng một loài ác hoa mọc lên từ bao giờ, chàng âu yếm gọi tên nó là Hoa cô độc” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Những linh cảm phận người đã được Ngô Kha cảm nhận qua thơ làm lạnh xương sống người đọc, khi nhà thơ vào tuổi hai mươi tràn trề yêu thương và khát vọng:
“nó trốn chạy khúc nhạc buồn gợi nhớ tên em
nên trở về đây
ôm tượng đá lạnh lùng tưởng linh hồn con gái”.
(Người con trai - Hoa cô độc)
Tâm hồn con người cũng mênh mông bí ẩn như vũ trụ. Nếu ai đó suốt đời hồ hởi với cái “chúng ta”, không bao giờ (hoặc không chịu) nhìn cái bóng đơn chiếc của mình khoắc khoải đêm đêm trên trang giấy, thì làm sao đi được đến cõi sâu thẳm của hồn người!
Đọc thơ, tôi luôn hình dung một Ngô Kha trầm tư già cả, trong những năm 60 của thế kỷ XX ấy, đã rong ruổi khắp nhân gian, đánh bạn với những “người ca bài sám hối/ trên bàn tay lạnh lùng”, với “tim khô gầy thoi thóp thanh tân... Đó là sự xui khiến của thần linh. Đó là cảm thức ma ám mà chỉ có “loài thi sĩ” (chữ của Hàn Mặc Tử) mới khải thị được. Cuối cùng của cuộc tìm kiếm đó là hình hài cuộc sống thực, rất u uẩn:
“còn đắng cay ở lại với mình
chiều dĩ vãng chở đầy khoang thổ mộ...”.
(Bài thơ hôm nay - Hoa cô độc)
Cuộc lang thang của thi sĩ với nỗi cô đơn phận người cộng thêm một trời máu lửa chiến tranh trên quê hương yêu dấu, đã đẩy tâm hồn chàng đến cõi tuyệt vọng. Đó là hoàn cảnh ra đời trường ca nổi tiếng Ngụ ngôn của người đãng trí của Ngô Kha vào năm 1968.
Nói cách khác, Ngụ ngôn của người đãng trí là cung bậc mới của phận người, là nỗi buồn cô độc cộng với tiếng thét đớn đau trước cái chết. Ngụ ngôn của người đãng trí là tiếng thét đòi giải thoát khỏi không gian tù ngục.
Vô vàn những thi ảnh lạ lùng, phi lý, kinh khiếp, những cuộc vật lộn, giằng xé, những cái chết mục ruỗng, những tiếng thở dài, những tiếng thét, những ánh hỏa châu. “...vết thương nảy lộc... người say rượu đắp bùn lên trái tim... tình yêu là xác chết... nhạc giáo đường trôi trên thi thể hoàng hôn...”; “...giọng nữ tu già vo ve như đàn muỗi” v.v...
Rất nhiều, rất nhiều những câu thơ tài hoa, lạ lùng đọc lên như tiếng nấc, như tiếng sét, sắc sảo đến ớn lạnh. Ngụ ngôn của người đãng trí miên man những hình ảnh, câu chữ tưởng như rời rạc, xô bồ, ngang dọc không cấu trúc, bỗng đua nhau sống dậy, mọc lên từ trái tim và trí tưởng tượng đắm đuối của nhà thơ.
Tất cả được huy động để khắc đậm hình tượng những cơn ác mộng, cõi hỗn chiến trong linh hồn giữa thời địa ngục tao loạn. Đẩy tới tận cùng của cơn đau giằng xé, đến nỗi, nhà thơ phải đau đớn thốt lên: “Những dòng chữ chảy từng hàng não sống”.
Những mảnh hiện thực tâm linh hiếm hoi trong Ngụ ngôn của người đãng trí cũng đậm chất ẩn dụ nhưng rất đời, rất xác tín về tương lai cuộc sống:
“vì trái tim là một quả đồng hồ treo
em nhớ mỗi ngày lên dây
sự sống bắt đầu từ đó”.
Đó là niềm tin, là sự thức tỉnh của bản ngã trước sự hấp hối của nhân tính. Đó cũng là điểm tựa cho Ngô Kha trở về với thực tại trong những tháng ngày nóng bỏng cuộc đấu tranh xuống đường của bạn bè sinh viên Huế của nhà thơ với nhiều bài thơ về chiến tranh, trong đó có Trường ca hòa bình.
Chiến tranh còn giơ nanh sắc vuốt nhọn khắp miền, thế mà Ngô Kha đã nghĩ đến “một đô thị vàng trên đồi Lao Bảo/ một thị trấn yêu kiều qua ngõ làng Vây...” (Cho những người nằm xuống).
Sự tiên đoán đó bây giờ đã thành sự thật! Trường ca hòa bình không hư vô sâu thẳm hay bát ngát mù sương như Ngụ ngôn của người đãng trí, nhưng đó là chứng chỉ cho giai đoạn dấn thân quyết liệt của Ngô Kha trong cuốn chiến đấu giành tự do cho dân tộc, cũng là chứng chỉ cho chất thi sĩ dấn thân của Ngô Kha, quyết liệt như nhà thơ cộng sản Petopy của Hungary.
Đó cũng chính là chất thi sĩ, không chịu được sự khốn nạn về tư tưởng và nhân cách. Trường ca hòa bình là tiếng hát phấn khích về tương lai đất nước khi cuộc kháng chiến đang dần vào hồi kết:
“ta bỗng nghe xao xuyến trên thân người
muôn vó ngựa dập dồn trong thớ thịt”.
Bằng sức tưởng tượng phong phú, Ngô Kha đã hình dung khung cảnh đất nước sau hòa bình với nhiều hình ảnh đầy phấn khích: “Nghe lụa mát trong hồn khi chiến tranh vừa tẩm liệm... ta vá lại cánh đồng từ các hố bom... hạt mầm sâu mừng rỡ thoát thai... nhìn hàng cây tượng đá hồi xuân/ như con ngựa say tình bên lá cỏ v.v...”. Đó là sự đồng cảm, đồng hành cùng cuộc chiến đấu sống còn của toàn dân tộc.
Có thể nới, với Ngô Kha, Hoa cô độc và Ngụ ngôn của người đãng trí là sự phát tiết tài hoa của thi sĩ trên hành trình của người lữ khách cô đơn, mang đậm chất hiện sinh siêu thực. Là hiện thân của cái đẹp tâm linh, tâm cảm.
Theo thiển ý của người viết, thì thơ siêu thực của Ngô Kha phải được xếp trong số những nhà thơ hàng đầu của miền Nam thời đó. Còn với Trường ca hòa bình là sự nhận chân lịch sử đất nước. Và Ngô Kha đã vĩnh biệt bạn bè, người thân, đã tan trong hư vô vì sự dấn thân quyết liệt đó.
3. Mùa hạ năm 2002, trong dịp đi sáng tác ở Đà Lạt, tôi được làm quen với ông Ngô Tú, lúc đó đã gần 80 tuổi. Ông Ngô Tú là anh ruột của nhà thơ liệt sĩ Ngô Kha. Ông đi theo cách mạng từ trẻ và tập kết ra Bắc. Khi Huế giải phóng, ông là sĩ quan cấp tá của ngành Công an, được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập Hạng 2.
Ông về lại quê hương nhưng rồi lại xung phong lên miền cao nguyên Lâm Đồng. Ông Tú đã xuất bản mấy tập thơ. Ông có cả trường ca dài 2.000 câu về cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc.
Ông Tú cho biết, thân sinh của ông là ông Ngô Tuyên, một quan triều Nguyễn, mẹ là Cao Thị Uẩn. Ông Tuyên và bà Uẩn sinh được 7 người con (4 nam, 3 nữ) gồm: Ngô Cơ, Ngô Tú, Ngô Thị Trang, Ngô Thi Thuấn, Ngô Du (không phải tướng Ngô Dzu của quân đội Sài Gòn như một số người nhầm), Ngô Thị Huân, Ngô Kha.
Như vậy Ngô Kha là con út. Thời nhỏ, 7 anh chị em đều học hành đến nơi đến chốn. Ngô Kha có 2 bằng đại học: Sư phạm và Luật khoa. Người chị gái Ngô Thị Huân, y tá quân đội VNCH (bà này hiện đang cai quản ngôi nhà của thân sinh ở thôn Thế Lại Thượng).
Năm 1962, Ngô Kha bị bắt quân dịch. Ngô Kha là sĩ quan quân đội VNCH, nhưng lại hăng hái tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh Huế; xuống đường cùng bà con phật tử Huế chống Mỹ - Diệm đàn áp Phật giáo năm 1963.
Năm 1964, Ngô Kha giải ngũ về dạy học. Thời kỳ này, Ngô Kha cùng Trần Quang Long lập ra nhóm đấu tranh, gọi là “Nhóm thanh niên chống xa hoa phóng đãng” và “Quán bạn”, tham gia xuất bản tờ tin “lực lượng” kêu gọi tuổi trẻ đấu tranh đòi hòa bình dân chủ...
Năm 1970, Ngô Kha cùng các đồng chí của mình trong lực lượng đấu tranh luôn bám trụ ở Trụ sở Tổng hội sinh viên (22-Trương Định, Huế) để phát động đấu tranh. Họ xuất bản tập san “Tự quyết”, thành lập Mặt trận Văn hóa dân tộc miền Trung do Ngô Kha làm chủ tịch, tổ chức triển lãm tội ác của Mỹ tại Huế.
Tháng 3-1972, Ngô Kha bị cảnh sát VNCH ở Huế bắt vô tù. Sau cuộc đấu tranh dữ dội của học sinh các trường, sau mấy tháng giam giữ, cảnh sát đã phải trả tự do cho Ngô Kha. 1 năm sau, Ngô Kha lại bị chặn bắt dọc đường và bị thủ tiêu như đã kể ở đầu bài viết.
Lần này thì Ngô Kha đã vĩnh viễn xa các em học trò, xa những đồng chí đã cùng nhau “xuống đường” bao nhiêu năm trời. Với Ngô Kha, thơ là cái còn lại cuối cùng, thơ còn sống mãi. Trong phần kết Ngụ ngôn của người đãng trí, nhà thơ nhớ mẹ, gửi mẹ những câu thơ như tiên tri về đời mình, cũng là thân phận chung của “loài thi sĩ” mọi thời:
“và nay gió cũng tang bồng
nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cửu”.