Nghe lửa quê hương sưởi ấm trong lòng

Thứ Hai, 04/01/2016, 23:21
Y chán y ghê gớm. Những lúc nhậu nhẹt say quắc cần câu, mềm như sợi bún, nói năng ba xí ba tú, phát ngôn nhăng cuội, oang oang đầu cua tai nheo, bán trời không mời thiên lôi thì y như rằng, ngày hôm sau lại tự dằn vặt. Rồi, tự “kỷ luật” chính mình bằng cách buộc ngồi vào bàn viết. 

Viết cái gì đó. Đã thế, cả ngày không cho nói. Buộc câm miệng cho bõ ghét. Lúc ấy, thành khẩn. Xỉ vả. Ăn năn. Hối lỗi. Nghiêm túc rút kinh nghiệm sâu sắc để thành người tốt. Ấy mà, qua ngày hôm sau, dù chưa tỉnh rượu, chỉ cần một cú điện thoại, một tin nhắn lại hăm hở lên đường. “Ngựa phi ngựa phi đường xa/ Tiến trên đường cát trắng trắng xóa...”.

Tệ thật.

Mấy hôm nay, chẳng rượu chè gì. Chỉ rượu đỏ lai rai. Cảm hứng nhẹ nhàng. Tuy nhiên, cũng chán luôn. Chán bởi một ngày trôi qua nhanh quá. Chẳng kịp làm gì đã một ngày. Ngày bay vèo. Vì thế, những ngày này, luôn gài điện thoại báo thức. Dậy đúng vào lúc 6 giờ sáng. Không chệch một giây. Không chiều chuộng. Không thỏa hiệp. Không ngủ nướng nữa. Lâu nay, y dễ dãi với y quá. Phải chỉnh đốn lại. Dậy sớm tập thể dục. Và lướt web nhì nhằng. Sáng nay, dậy sớm, nghe chim hót véo von. Tiếng chuông chùa thanh tịnh vọng sang.

Với tay lấy tập thơ và đọc. Tập Thơ ca (NXB Quân đội nhân dân - 1980) của nhà thơ Thanh Tịnh. Một phát hiện nho nhỏ. Lâu nay trên báo chí, các cơ quan truyền thông đều mặc nhiên thừa nhận: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong” là câu nói của Cụ Hồ. Người này viết, người kia chép lại và lâu dần cứ nghĩ Cụ Hồ là tác giả. Viết, nói, nghĩ như thế là sai lè lè. Bằng chứng trong Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, Cụ Hồ phát biểu: “Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Bài này, lần đầu in trên báo Nhân Dân số 4722 ra ngày 14 - 3 -1967. Có thể kiểm chứng tại trang 1.359, Hồ Chí Minh toàn tập (NXB Chính trị Quốc gia - 2002). Rõ ràng, Cụ Hồ không khẳng định mình là tác giả. Vậy mà đương thời, thời sau cứ gán cho Cụ. Vậy tác giả là ai? Xin thưa, của nhà thơ Thanh Tịnh. Trong tập Thơ ca, trang 51 có in bài thơ Dân no thì lính cũng no, nguyên văn như sau:

Trông lên thì thấy đầy sao
Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến thân
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong

Thóc thuế mà có dân đong
Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Liệu còn thằng giặc đứng ngồi sao yên?

Nhân dân là bậc mẹ hiền
Cơm gạo áo tiền thì mẹ đã lo
Dân no thì lính cũng no
Dân reo lập nghiệp, lính hò lập công

                                                (1951)

Hôm kia, sang HTV thu chương trình thơ cùng anh em văn nghệ. Nào ngờ, mấy câu thơ này, nhiều người lại nhầm sang Bút Tre:

Hôm nay mồng Tám tháng Ba
Tôi giặt hộ bà cái áo của tôi
Tôi phần bà một đĩa xôi
Sợ bà răng yếu tôi xơi hộ bà

Bài thơ có tựa 8.3 muôn năm, “Gửi C.T.H” in trong tập Gà trống đẻ (NXB Thanh niên - 1989) của Tú Sót. Sự việc rất rõ ràng. Chẳng gì phải bàn cãi thêm nữa.

Nghe kể, Thanh Tịnh là người sống chí tình. Khi Thanh Tịnh bước vào trường văn trận bút, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã quá nổi tiếng và có nhiều tác phẩm được công chúng yêu thích. Thế nhưng, đối với các cây bút mới, tác giả Lá ngọc cành vàng đều có thái độ nâng đỡ tận tình, vì thế ai cũng quý mến. 

Trong số đó, có nhà văn Thanh Tịnh. Dù chưa có điều kiện “trả nghĩa” nhà văn đi trước từng dìu dắt mình trên đường văn nghiệp, Thanh Tịnh áy náy lắm. Nhưng lần nọ ông cũng có dịp “đỡ” cho Nguyễn Công Hoan. Ông “đỡ” như thế nào? “Đó là lần tôi cùng các anh Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông... đỡ chiếc quan tài đưa nhà văn Nguyễn Công Hoan về nơi an nghỉ cuối cùng”.

Nghe cảm động quá.

Sáng nay, vẫn công việc của mỗi ngày. Đang đi nghe điện thoại của anh em bán sách cũ. Thường có sách gì hay, họ lại gọi đến mua. Thường là chẳng mua gì, đơn giản, y không phải là người chơi sách cũ. Không việc gì phải bỏ ra số tiền lớn. Chỉ mua những gì cần thiết thôi. Mà những cú điện thoại như thế, rất khoái. Dù không mua nhưng cũng có dịp tận mắt nhìn ngắm, tận tay sờ mó những sách, báo chí cũ. Chà, lần này lại gặp thể loại mà y rất ghét. Đó là thơ.

Hầu như tuần nào, tháng nào cũng nhận được thơ của anh em, bạn bè gửi tặng. Nay lại thơ nữa. Ngao ngán quá. Các tập mỏng dính nhưng xếp lên kệ, kệ sách của y đã dài hàng chục mét… thơ! Vậy mua làm gì nữa? Chẳng lẽ, người ta có lòng gọi điện thoại báo tin mà chẳng mua gì sao? Thôi thì, bấm bụng mà mua vài tập thơ cũ vậy. Trưa, cơm nước xong lật tập Hà Nội thơ do Chi hội văn nghệ Hà Nội in năm 1968 đọc lai rai. Nhận xét, hầu hết các bài thơ đều gắn với yếu tố chính trị, thời sự thuở ấy. Nhà thơ Yên Thao, nổi tiếng thời kháng Pháp với bài thơ Nhà tôi, có những câu như:

Anh rót cho khéo nhé!
Không lại nhầm nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
Có giàn thiên lý, có người tôi yêu.

Trong tập thơ này, Yên Thao in bài thơ Vỡ đất, có đoạn (tr.173):

Hội nghị Chi đoàn họp trước tiên
“Việc cần, việc khó có thanh niên”
- Máy cày không nổi ta dùng sức
Đem cánh tay này lật đất lên!

Đã thế:

Cái mạ đầu tiên chưa cắm xuống
Đã nghe vàng óng những nong đầy.

Nghĩ gì về những câu thơ này? Phải chăng cũng phản ánh tâm thế của một thời đó chăng? Nói thật, y lại thích những đoạn thơ của tác giả có cái tên lạ hoắc: Từ Đông Quan. Tựa thơ giản dị Hàng của ta có những khổ thơ mộc mạc, đọc lại, ắt nhiều người Hà Nội sẽ bùi ngùi khôn xiết:

Có người xa quê hằng tơ tưởng chờ mong
Chợt bồi hồi châm điếu thuốc Thăng Long
Khi lửa xòe que diêm Thống Nhất
Nghe lửa quê hương sưởi ấm trong lòng

Chiếc lốp Sao Vàng xông pha đánh Mỹ
Quấn áo, chăn, giầy bộ đội hành quân
Ánh đèn pin đêm đêm dài chiến lũy
Chai bia Trúc Bạch dâng mát tình dân

Cây bút Hồng Hà chấm mực Cửu Long
Trên giấy Việt Trì ta viết bài thơ ca ngợi
Những mặt hàng
Những mặt hàng rất mới
Như mỗi ngày thêm một chiến công.

Sau ngày miền Nam giải phóng, thế hệ y cũng đã biết đến thuốc lá Thăng Long, hộp diêm Thống Nhất, lốp Sao Vàng, bút Hồng Hà, mực Cửu Long… Nói thật, chất lượng những thứ này thua xa do miền Nam sản xuất. Dễ nhìn ra nhất là loại giấy vở học trò. Một bên trắng tinh. Một bên đen xì. Có một điều lạ, trong hai mươi năm (1954-1975) hầu như các địa danh ngoài Bắc ít thay đổi. Bằng chứng, sau nhiều năm chia cắt đất nước, không thông tin liên lạc, sốt ruột quá, ba y viết lá thư gửi về quê nội. Gửi hú họa về làng, xã, tỉnh thành theo trí nhớ. Lạ chưa?

Vài tháng sau, nhận được thư trả lời. Chà, vui mừng phải biết. Ba y cầm lá thư ấy đem khoe cả xóm. Ai cũng cầm lá thư, xem từ con tem đến bìa thư. Ngày đó, trong Nam không có bia Trúc Bạch, nổi tiếng nhất vẫn là bia Con Cọp, Bia 333. Nay đọc những câu thơ mộc mạc, hiền lành “Chai bia Trúc Bạch dâng mát tình dân”, có thể hình dung ra đời sống thường nhật của Hà Nội năm ấy. Còn những câu thơ “lên gân” thời sự, đọc lại chỉ buồn cười...

À quên, ghi thêm câu này vừa đọc trên Báo Phụ Nữ TP HCM. Ghi thêm vì tâm đắc. “Chỉ đánh nhanh, mạnh hết sức rồi… bỏ chạy các em nhé”. Đó là lời dặn dò của ông thầy võ Jessy - tình nguyện viên người Mỹ dạy các em gái vị thành niên ở Nhà An toàn (Pnom Penh). Dạy các em biết tự bảo vệ khi bị kẻ xấu tấn công, quấy rối tình dục trong một tình huống đơn độc. 

Môn võ này có tên KravMaga - đỉnh cao của kỹ thuật đối kháng xuất phát từ quân đội Do Thái, dẫn đầu trong các môn võ tự vệ vì tính đơn giản và hiệu quả. “Chỉ đánh nhanh, mạnh hết sức rồi… bỏ chạy em nhé”. Điều này, trong kỹ năng sống có ai dạy cho trẻ em chúng ta không?

Đêm qua, nằm đọc lại quyển Thơ văn Tự Đức của NXB Thuận Hóa. Bản in này là bản Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa ở miền Nam xuất bản năm 1970. Đọc và thấy rằng, vua Tự Đức không đến nỗi “đáng ghét” như lâu nay từng nghĩ. Nào phải riêng y, đọc lại giai đoạn triều Nguyễn, ai cũng thấy rằng thời loạn lạc, lầm than, bi đát nhất vẫn là thời Tự Đức. Nào ngờ, đã có vài lần, vua Tự Đức dũng cảm dám nhận khuyết điểm.

Ngày 2-6 năm Tự Đức thứ 29, ngài viết Tự chê trách, có đoạn: “Cơ nghiệp sáng lập giữ gìn hơn hai trăm năm, bỗng một ngày bỏ mất, thực là tội của tiểu tử này không thể nói xiết. Dù cho có làm được công đức cũng không thể chuộc được tội lỗi”. Ấy là ngài “tự phê” đã để “mất cả đất đai dân chúng sáu tỉnh Nam kỳ” khiến “Trông lên cúi xuống, sống đã không mặt mũi nào, chết cũng không thể nhắm mắt”. Sau khi “tự phê”, ngài chọn “hình thức kỷ luật” thế nào?

Theo lệ cũ, quân vương có tội, đặt tên thụy là “lệ” (tội lỗi), không được được đặt chữ “Tông”: “Vậy phải nên bỏ đi. Không nên đặt thêm Tông hiệu, để làm gương cho những quan nhân có lỗi muôn thuở về sau. Và cho trẫm được cùng các bầy tôi có lỗi, cùng chia sẻ tội tình, cùng chịu tủi nhục, ấy là chí hướng của Trẫm. Lời nói trung thực, phát ra từ lòng ra, chớ nên trái ngược, chớ nên quá lạm. Vậy bố cáo cho cả thiên hạ điều hay”.

Dám nhận lỗi, nhìn thấy lỗi lầm, day dứt đến độ “chết cũng không thể nhắm mắt”, ta nghĩ sao về con người này?

Đau đớn do đất đai mất vào tay kẻ thù, ngày 12-2 năm Tự Đức thứ 30, ngài lại viết bài dụ Bảo cùng bề tôi, có đoạn: “là ngày sau không dám dự vào nhà Thế miếu, vì không mặt mũi nào còn dám trông thấy tổ tông dưới suối vàng”. Thế miếu là nơi thờ các vị vua Nguyễn thời trước, ngài tự nhận mình không xứng đáng vào nơi tôn nghiêm ấy, há đã tự nhận một hình phạt ghê gớm về tâm linh đó sao? Đọc những dòng này, trong tâm trí nghĩ về vua Tự Đức đã ít nhiều thay đổi.

Ôi, thời buổi này, có ai còn dũng khí cắn rứt, tự nhận lỗi như vậy không? Chẳng biết trả lời sao? Chỉ nhớ đến câu tục ngữ thật hay: “Ăn như rồng cuốn, uống như rồng leo, làm như mèo mửa”. Y mỉa mai ai thế? Tự chỉ trích đấy thôi. Sực nhớ đến theo thống kê của tổ chức nghiên cứu thị trường Eurowatch về thành tích người Việt “ngốn” 3 tỷ lít bia trong một năm, bèn ưỡn ngực tự khen, y là một trong những đệ tử Lưu Linh đã góp phần làm nên kỷ lục vẻ vang này.

Vậy không vui là gì?

Lê Minh Quốc
.
.