Một ngày ở Paris

Thứ Năm, 22/07/2010, 14:46
“Paris có gì đẹp không em/ Mai anh về em có còn ngoan…". Buổi sáng trong lành khi đi dạo một mình trong khu vườn Hoàng Gia và Công viên St.Cloud tôi cứ ngân nga những câu thơ của Nguyên Sa - và tôi đã biết vì sao mà tác giả "Áo lụa Hà Đông" lại thốt lên như vậy, vì mỗi buổi sáng đối với tôi, Paris là cả một sự đổi khác, phải nói là đẹp đến nao lòng.

Kết thúc cuộc đi bao giờ tôi cũng đặt chân lên viên gạch thiêng trước tam cấp của nhà thờ Đức Bà Paris, để cầu mong sự may mắn cho mình và cho những người thân.

Tiếp tục leo 376 bậc thang lên nhà thờ, từ trên cao ngắm nhìn Paris trong sớm mai, đâu đó nơi gác chuông, tôi vẫn như thấy bóng hình của nàng Esméralda kiều diễm thân hình bầm dập rớm máu sau những khảo đả tra tấn của giáo hội và pháp đình chỉ vì một "tội" là nàng quá đẹp, quá trong trắng. Bên cạnh đó tôi cũng như thấy hình hài co quắp đến tội nghiệp của "thằng" gù Cadimodo cũng bị tra tấn vì "tội" quái đản xấu xí.

Victor Hugo (1802 - 1885) đã lấy nhà thờ Paris làm bối cảnh, một thiên hùng ca bằng văn xuôi, đó là cuốn "Nhà thờ Đức bà Paris". Đây thật sự là bức tranh về Paris ở thế kỷ XV thời trị vì của vua Louis XI. Bằng một cốt truyện khá bi thảm nặng nề, các tình tiết xếp đặt khéo léo, mang kịch tính và hình ảnh phóng đại, tô đậm lẫn lộn thực hư đã dẫn dắt người đọc sống lại không khí xa xưa của thời kỳ Trung cổ đen tối…

Tôi cũng đọc nhiều văn của Victor Hugo, song trong chuyện này đọng lại trong tôi duy nhất lại chính là "thằng" gù. Vì vẻ đẹp nội tâm cũng như tâm hồn thánh thiện đến ngờ nghệch, một nhân cách rất "người" trong bộ dạng quái đản, xấu xí ấy, Cadimodo đã là một bài học đạo đức về lòng nhân hậu và lối sống vị tha. Tôi đã khóc nhiều lần khi Cadimodo lết tấm thân đẫm máu đến hôn chân giáo chủ vì "Bàn chân cao quý của ngài", vừa hạ cố xuống thân thể bần tiện hèn mọn của con…

Paris, tôi hay có thói quen dậy rất sớm vào lúc rạng đông và đi ra chợ chính (mùa hè ở đây thường 4h sáng là đã có ánh mặt trời và đêm phải sau 22h mới tắt nắng). Chợ chính cũng là nơi duy nhất bắt đầu sinh hoạt trong cái giờ sớm sủa như vậy, không khí yên bình phảng phất mùi cà phê mới xay, hơi nước bốc lên thật nhẹ trên những đại lộ vừa được tưới đẫm.

Những viên cảnh sát khoác áo choàng ngắn, đứng cạnh những kiot bán sách và hoa, mẫn cán canh gác cho sự thanh bình của phố xá. Đâu đó những quầy bán hoa đã tràn đầy, rực rỡ các màu hoa păngxê mỏng manh hao gầy như cánh chuồn, hoa thủy tiên thì vàng mướt khoe sắc cùng những cánh hồng đủ loại e ấp trong chậu, oải hương tím biếc qua những lớp giấy gói thô mộc, vẫn tỏa ra một mùi hương kín đáo dịu dàng…

Cách chợ vài khu nhà, băng qua một ngã tư là đến dãy phố bờ sông Sene cũng là khu chợ hải sản tươi sống thường được trở về từ Brittany và Provence, những con tôm hùm ngọ nguậy đôi râu, cá trong chiếc chậu bằng kẽm thì vẫn còn bơi lội trong vòi nước luôn được chảy xuống mình chúng, những con sò điệp đỏ au, bên cạnh những con hàu xù xì gai xám… và cũng chỉ có 10 euro (khoảng 220 ngàn tiền Việt) là tôi đã có một chú cua rang me hẳn hoi nhé, béo ngậy thơm phức, đủ để bổ sung chất đạm cho một ngày mới rồi.

Dân Paris trước khi đi làm thường uống café crème, thức uống đặc trưng Pháp với café pha kem đánh sủi bọt nâu thơm lừng trong một cái cốc thật to bằng cái bát ăn cơm. Nhưng ăn sáng lại thật đơn giản, thường chỉ một chiếc bánh mì Baguette giống y chang bánh mì 2 ngàn đồng ở Việt Nam, nhưng nhỏ và dài hơn, kẹp chút dưa chuột, cà chua thái lát, vài cọng hành nhỏ cùng chút bơ phết vào, thế là xong một bữa sáng gọn nhẹ.

Vốn là người cũng có "tâm hồn ăn uống" nên tôi rất hay lang thang mò mẫm. Buổi sáng trên hai con phố Rua de Sene và Rua de Guci ở khu Latinh là sầm uất và nhộn nhịp không kém khu ẩm thực ở ngõ Cấm Chỉ bên nhà. Vì ở đây nổi tiếng với những hàng ăn ngon, cũng với những hàng bánh mì lề đường, nhưng được xếp gọn tất cả trong các tủ kính nhỏ, cả người bán lẫn người ăn đều rất trật tự.

Người bán thì tay thoăn thoắt, sẻ bánh, cho các thứ gia giảm theo nhu cầu của người ăn, người thì thích thêm May onarse cho béo, người thì lại thích thêm nhiều rau, hành hoặc thêm chút muối tiêu cho đậm đà. Những miếng Baguette giòn thơm, tan trong miệng làm tôi lại chạnh lòng nhớ tới những lúc còn ở bên nhà cái sự ăn sao mà vất vả cho cả người ăn lẫn người bán đến thế.

Nằm bên bờ sông Sene thơ mộng, ngọn tháp Eiffel, biểu tượng hoa lệ đầy tính nghệ thuật, cũng là niềm tự hào của người dân Paris vừa làm "sinh nhật" cho 220 năm ra đời của mình. Được xây dựng từ năm 1890 phải mất 26 tháng, ngọn tháp cao 320m mới được hoàn thành (thực ra thì tôi còn bớt của nó 75cm).

Ban ngày thì trông chỉ thấy một khối sắt lừng lững nhưng ban đêm thì thôi rồi - Thủ đô Paris vốn được mệnh danh là thành phố ánh sáng, thời trang, nước hoa và đồ trang sức. Tháp Eiffel cũng vậy, ban đêm nó trở thành một biểu tượng tỏa sáng lung linh giống như đồ trang sức cho một thiếu nữ xuân thì.

Ông chú tôi - một thượng nghị sĩ của Quốc hội Pháp còn giảng giải cho tôi về những tính năng hữu dụng của tháp. Hóa ra ẩn sau cái sự thô ráp không ăn nhập với phần kiến trúc đầy tính nghệ thuật nói trên thì ngầm sâu dưới chân tháp khoảng 60 - 70m lại là một phần kiến trúc khác hẳn, tuy đơn giản nhưng vô cùng quan trọng, đó chính là những trung tâm giám sát an ninh, thiết bị hiện đại giúp ngành an ninh Pháp, bao gồm lực lượng cảnh sát, hiến binh và lực lượng tinh nhuệ bảo vệ, giám sát tốt các cơ quan trọng yếu của chính quyền Pháp và chính quyền thủ đô Paris.

Những con mắt điện tử từ trên đỉnh tháp và từ các nơi khác chuyển về trung tâm này từng giây, từng phút mọi động tĩnh ở phủ Tổng thống, cơ quan Chính phủ, Quốc hội, Tòa thị chính Paris, các trụ sở sứ quán, sứ đoàn ngoại giao. Một phần ba đường phố và các nút giao thông trên bộ, dưới xe điện ngầm, dưới sông được các lực lượng an ninh để mắt tới. Du khách đến tham quan tháp Eiffel vô tình không biết mình đong đưa nụ cười, khóe mắt tình tứ cho nhau trên một "cơ thể" đang đảm bảo an toàn cho mình.

Trải dọc theo con đường bờ sông cạnh nhà thờ Đức Bà là những người đi câu với những chiếc cần câu dài, thường là không thấy cá đớp mồi, vì thế mà phần đông những người này thường là cầm báo để đọc, số khác thì úp mũ lên mặt mà ngủ say sưa, mặc hết sự đời. Tôi thì lại nghĩ rằng ánh sáng lấp loáng cùng những làn gió sông thổi nhè nhẹ làm cho họ không thể dứt được cơn buồn ngủ, mà lại ngủ ngày, giữa thanh thiên bạch nhật như thế thì còn thú gì bằng cơ chứ?

Tôi cũng đứng bên lan can đá ở phía trên nhìn xuống, ngắm những chiếc "tàu ruồi" chở khách du lịch ngược xuôi. Bên cạnh tôi lúc này là một cụ già râu tóc bạc, một tay cầm ba toong, còn tay kia cũng lại cầm một tờ báo, ông cụ liếc mắt nhìn tôi, còn tôi thì cũng thỉnh thoảng "nghía" trộm cụ mà không dám gợi chuyện.

- Bonjour, camarade!

Ồ, ông ta chào mình trước mà lại còn gọi là "bạn" nữa chứ. Tôi cũng gật và chào ông bằng tiếng Pháp luôn. Ô la la, cụ già nói và chắc lưỡi trông Mademoiselle (lại là cô) tôi biết cô là người ngoại quốc, đúng không ạ, và vì là người ngoại quốc, cô có thể nghĩ rằng những anh chàng kỳ quặc ở dưới kia.

Cụ già trỏ những người câu cá, có thể câu được một con cá nào đó? Không bao giờ, đó! Tôi nói với cô như thế đó: Nếu trong một tuần lễ có tay nào trong bọn họ lôi lên khỏi mặt nước dù chỉ là một con cá mòi nhỏ thì tôi xin mất với cô 10 euro đấy.

Tôi phát phì cười vì một vụ làm ăn "cá cược" với một cụ già người bản xứ, vì vậy khi cụ già thấy tôi - một người da vàng nhưng mũi cũng lõ như cụ, mắt thì cũng hun hút như ai mà nói tiếng của cụ cứ lèo lèo thì cụ khoái ra mặt và khi lại biết được là nhà tôi ở quận 16 trên đại lộ Foch thì cụ đổi thái độ từ ngạc nhiên sang hoài nghi.

Cụ nói: "Tôi biết ở khu đó các tòa nhà được xây bằng đá đẽo, cổng rào kín chuyên có xe ngựa đỗ, hè phố rộng, cây to rợp bóng, những ngôi biệt thự lộng lẫy của các lớp người giàu có của các diễn viên, ngôi sao màn bạc như Alain Delon, Jean, Belmondo, Catherine, Deneuoc, Francozs Sagan… và của các thượng nghị sĩ quốc hội nơi này là một xã hội của xa hoa và quyền lực có một không hai trên thế giới với những nhà tài phiệt có vệ sĩ bao quanh, những quý bà ngự trên những chiếc Mercedes bóng lộn với kẻ hầu người hạ đi xe riêng hộ tống…

Với một tràng diễn thuyết hoài nghi và đầy hiểu biết như vậy thì cụ kết luận luôn là "cô không thể ở nơi đó được" để khỏi tranh luận dài dòng mất thì giờ, tôi đọc số điện thoại ở nhà tôi tại khu mà cụ khẳng định "cô không thể ở được" và đưa tên cho cụ "tét" luôn. Sau khi đầu dây bên kia trả lời là tôi ra ngoài dạo từ sáng sớm thì cụ già chỉ ô la la mà chả nói gì được nữa.

Đáp lại, tôi bèn mời cụ vào quán "cà phê văn chương" ngay tả ngạn bờ sông Sene - trên  sân thượng chằng chịt dây leo vừa được tưới nước, những giọt nước còn đọng lại trên cành hoa diên vĩ biếc tím mà người Pháp coi là "quốc hoa" cùng với hoa ly thỉnh thoảng lại nhỏ giọt trên đầu, trên tay chúng tôi (tôi phải nói thêm ở Tây họ rất sòng phẳng và rõ ràng trong chi tiêu cho dù có là vợ chồng đi chăng nữa thì kinh tế chủ yếu là lương thì "hồn" ai người nấy giữ, chả như bên nhà, đàn ông thành đạt ở Việt Nam đa phần là "rất ngoan" với vợ. Một số bạn bè của tôi đều thú nhận là lĩnh lương xong là cho ngay vào phong bì về nộp vợ không thiếu một xu, trà lá, thuốc lào thiếu đâu thì lại "xin" vợ một tý vậy).

Thế cho nên khi uống cà phê tôi mời thì cụ già rất lịch sự hỏi tôi có vui lòng mời cụ ăn thêm một cái bánh Crepe nhân táo không? Tất nhiên là tôi đồng ý cho cả tôi cùng thưởng thức món bánh đặc biệt này, chỉ khác cụ già là tôi ăn nhân hải sản, thêm một chút giá cho có vẻ giống vị bánh xèo  như ở Việt Nam. Cụ già nói: "Tôi là một họa sĩ điêu khắc về hưu - 75 tuổi rồi”.

Và cụ xoè đôi bàn tay cho tôi nhìn những vết chai sạn do đục đẽo đá. “Tôi không làm việc được nữa, già rồi thì con trai tôi nó nuôi tôi, nó cũng là họa sĩ nhưng chuyên vẽ tranh trừu tượng". Tôi nói kiểu như tranh vẽ của Picasso à. Thì cụ già bảo đúng rồi đấy tranh trừu tượng tạo cho họa sĩ rất nhiều tự do để sáng tạo và tôi đã hiểu những bức tranh của bạn tôi được phóng tác trong tự do của tâm hồn thăng hoa với những phút ngẫu hứng.

Ông cụ họa sĩ già hồi tưởng: "Không ai biết tôi đã đẽo biết bao nhiêu bao lơn, khung hình chạm và phù điêu đẹp đẽ cho những tòa nhà, những cây cầu của Paris và cả cho cung điện Versei nữa, tôi cũng không biết, tôi cũng không ghi chép những công việc của mình! Thưa cô!”.

Tôi không thể trả lời cụ mà chỉ xin cụ một cuộc hẹn, khi nào đó tôi lại xin hầu chuyện cụ và mời cụ đến bảo tàng Louvre để tôi xin học "mót" chút kiến thức về hội họa nơi cụ. Tạm biệt cụ, tôi phải cải chính tôi là mademe, là một quý bà rồi chứ không thể nào là "cô" được nữa vì tôi đã có hai con trai lớn lắm rồi, con trai cả của tôi cũng đã bước vào tuổi 27 chứ ít ỏi gì nữa. Thế là cụ già lại ô la la với chút ngạc nhiên thật sự.

Paris, tháng 7/2010

Lê Phương Dung
.
.