Ví dầu cầu ván đóng đinh

Thứ Hai, 05/06/2017, 08:06
Gió dựa thân tường, lưng gió phẳng
Trăng nhìn cửa sổ, mắt trăng vuông.


Có những câu thơ đi vào trí nhớ tự lúc nào chẳng rõ nữa. Cũng chẳng rõ tác giả là ai. Sức ám ảnh của câu thơ đã khái quát được cái lúc tĩnh tâm, nhìn thấu rõ sự vật, tâm trí nhẹ nhàng khoan khoái. Ấy thế, đang mơ mơ màng màng, du dương theo thơ bỗng nghe sét đánh bên tai. 

Có thể là sự việc này: "Theo thông tin ban đầu, khoảng 11 giờ 35 ngày 20-3, tàu kéo mang biển số SG 3745 do tài công Trần Văn Giang (36 tuổi, ngụ Bạc Liêu) điều khiển, kéo theo sà lan biển số SG 5984 chở khoảng 600 tấn cát từ Long An về hướng Đồng Nai đã đâm vào mố số 2 của cầu Ghềnh. Cú đâm mạnh đã làm nhịp 2 bị rơi xuống sông hoàn toàn, nhịp 3 thì đầu nam rơi xuống sông, đầu bắc rơi gác lên mố cầu số 1. Sự cố làm cắt đứt đường lưu thông huyết mạch trên tuyến đường sắt bắc - nam. Riêng chiếc sà lan bị lật úp trên sông" (Báo Thanh Niên ngày 21-3-2016).

Ghê chưa? Bèn rời khỏi thế giới của thơ, nhân sự kiện này, đọc lại Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển (NXB Đồng Nai - 1998). Tập sách này do Ban Chỉ đạo Lễ Kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai biên soạn, vì thế đáng tin cậy.

Theo đó, cầu Ghềnh, còn gọi cầu Gành dài 223m, do Hãng Eiffel thiết kế vào năm 1903, cùng lúc với cầu Rạch Cát, thuộc thành phố Biên Hòa - là 2 cây cầu bắc qua sông Đồng Nai dẫn vào Cù lao Phố. Ngày 14-1-1904, đoạn xe lửa Sài Gòn - Biên Hòa thông xe, ít lâu sau tàu chợ chạy hàng ngày. 

Dần dà, tuyến đường xa hơn, đến năm 1936, đường sắt mới nối thông Sài Gòn - Hà Nội. Kiến trúc sư Gustave Eiffel (1832-1923), người thiết kế tháp Eiffel, còn "để đời" với 2 công trình kiến trúc cầu khác ở Việt Nam là cầu Long Biên (Hà Nội) và cầu Tràng Tiền (Huế).

Tại sao báo chí đưa tin cầu Ghềnh, nhưng tập sách trên lại viết cầu Gành? Nguyên do tại làm sao?

Câu hỏi thú vị này, học giả An Chi trả lời: "Gành - một từ Việt gốc Hán "chỗ lòng sông thu hẹp và nông khiến cho dòng nước bị dồn lại nên chảy xiết" (Từ điển từ ngữ Nam Bộ của TS Huỳnh Công Tín). Ngày nay, trong tiếng Việt văn học và tiếng Việt toàn dân thì nó đã biến thành ghềnh (trong thác ghềnh) nhưng trước đó thì nó là ghình như còn có thể thấy trong phương ngữ Nam Bộ:

Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi

(Nhiều tác giả đã không ý thức được về đặc điểm của phương ngữ nên đã tự động đổi ghình thành "ghềnh" nhưng "ghềnh" thì đâu có vần "ngon lành" với "đinh" ở câu trên). Trở lên chúng tôi đã nói về diễn tiến "gành > ghình > ghềnh", để qua đó mà khẳng định rằng gành là bậc ông bà chứ ghềnh thì chỉ là hàng con cháu mà thôi. 

Gành là một cái tên cúng cơm xưa hàng trăm năm mà dân chúng trong vùng đã đặt cho cây cầu xấu số đã gãy đổ. Vậy các nhà báo, nhà truyền thông có nên sỗ sàng đổi tên của nó thành "Ghềnh" hay không?".

Có thể hiểu nôm na gành là gành đá nổi lên ở gần cầu thời đó nên người dân mới gọi "cầu Gành". Và ông An Chi kết luận: "Ta nên nhớ rằng, ở đây, Gành không còn là danh từ chung nữa, mà là danh từ riêng, là địa danh. Đối với địa danh, nhân danh, ta không thể tự tiện hoặc sỗ sàng thay thế nó bằng biến thể ngữ âm (của nó)".

Thuyết phục quá đi thôi.

Bèn lẩn thẩn tìm hiểu thêm về từ "gành" một chút nữa. Còn nhớ, thành ngữ có câu: "Cuối bãi đầu gành", không chỉ giải thích "Chỉ sự cách trở xa xôi", từ điển của Huình Tịnh Paulus Của (1895) còn ghi nhận "Gành: chỗ đất đá gio gie bên mé biển"; "Quân ở gành" là quân không biết lễ phép và không ghi nhận từ "ghềnh" theo nghĩa đang bàn mà "ghềnh: không sát, hãy còn chỗ hỏng lên; đầu cao, đầu thấp".

Cách giải thích này, tương tự từ điển Việt-Bồ-La (1651) giải thích: Gềnh, gập gềnh: Con đường gồ ghề vì luôn có chỗ cao chỗ thấp. Trong khi đó, ở ngoài Bắc, từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại không ghi nhận "gành", chỉ có "Ghềnh: Vũng sâu, có nước xoáy mạnh" chẳng hạn: "Sa cơ nên phải lụy cơ/ Thuyền buôn lỡ chuyến lửng lơ đầu ghềnh"…

Tuy nhiên, không chỉ có gành/ghình/ghềnh, theo TS Huỳnh Công Lý, trong Nam có nơi gọi là gãnh như ở huyện Ba Tri, Bến Tre có gãnh Mù U (Xã Bảo Thạnh), gãnh Bà Hiền (xã An Thủy)... 

Từ "gãnh", với người Trung, Bắc đố mà hiểu. Nếu xét theo năm tháng ghi nhận của từ điển, lập luận từ "gành" biến âm ra "ghình" rồi "ghềnh" của ông An Chi chí lý lắm thay. Phải nghiêng mình thán phục. Giải thích rõ ràng, đâu ra đó. Học thêm một chữ. Hiểu thêm thêm một chữ. Tự nhiên, thấy trong lòng vui thêm một chút.

Tiện tay, ghi nhón thêm chút nữa. Ghi, không chỉ thông tin thú vị mà còn về một từ có hai âm đọc: kinh/kênh.

Bài Dấu xưa Đồng Tháp Mười: Kỳ bí bia đá trấn thủy của tác giả Ngọc Phan - Hoàng Phương in trên Báo Thanh Niên. Chi tiết này hay: "Với mục đích khai thác vùng Thiên Hộ, Phụng Thớt, năm 1895 Trần Bá Lộc (tức Tổng đốc Lộc) huy động dân phu vùng Cái Bè, Cai Lậy đào một con kinh chạy từ Rạch Ruộng đến Bà Bèo dài 47 cây số. 

Dân gian kể lại, khi phóng kinh Tổng đốc Lộc cầm ống nhòm ngồi trên chiếc ghe lườn trải chiếu bông, bắt dân kéo theo tầm ngắm của ông ta, rồi căn cứ vào dấu sậy đế, đưng, lác rạp xuống do ghe lướt qua mà cắm bông tiêu, chia từng đoạn ra đào. Kinh được đào bề ngang khoảng 3 - 4 thước".

Một kiểu đào kinh độc đáo của người xưa ở Nam bộ. Đọc Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu (NXB Hương Sen - 1972), ta còn biết thêm một chi tiết quan trọng không kém lúc cha ông ta đào kênh Vĩnh Tế năm 1822: "Để cho con kinh được ngay, người ta đợi lúc ban đêm, rẽ sậy rạch hoang, đốt đuốc trên đầu những cây sào cao rồi nhắm theo đường thẳng mà cặm. Muốn điều khiển những cây "sào lửa" ấy cho thật ngay hàng, người ta cầm một cây rọi to, đứng trên cao phất qua phất lại ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí".

Trong suốt 5 năm tiến hành việc đào kinh, nhân lực đào kinh đã lên đến 80.000 người. Năm 1824, công trình hoàn thành, dòng kênh dài gần 98.300m, bề ngang 50m, sâu 6m nối liền Châu Đốc đến cửa biển Giang Thành (Hà Tiên). Sự kiện vĩ đại này được ghi nhận trong Đại Nam nhất thống chí: "Từ đây đường sông mới lưu thông, việc biên phòng, việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng".

Trở lại với bài báo trên Thanh Niên: "Khi con kinh hoàn thành vào tháng 7-1897, đích thân Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer xuống dự lễ khánh thành; dân gian gọi là kinh Tổng đốc Lộc. Từ năm 1918 - 1924, thực dân Pháp nhiều lần dùng xáng múc mở rộng nên còn gọi là kinh Xáng. Đến năm 1947, kinh Tổng đốc Lộc được đổi thành kinh Nguyễn Văn Tiếp, tên vị chủ tịch đầu tiên của Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Mỹ Tho".

Để nói đến một sự việc/sự vật gì đã có từ thời xa xưa, người ta thường dùng "đời tám hoánh". Nếu không, có thể sử dụng "thời bà Cố Hỷ"; lúc còn nhỏ ở Quảng Nam, y còn nghe nói đến cụm từ khác: "Thời Bảo Đại cởi truồng tắm mưa". 

Lâu nay, cứ tưởng từ "chảnh" mới xuất hiện gần đây, nào ngờ từ "đời tám hoánh" nó đã được ghi nhận, chẳng hạn, Việt Nam tự điển (1931) cho biết: "Chảnh: Chảnh hoảnh là tỉnh táo, gọn gàng: "Đứa bé này ngủ dậy trông bộ chảnh hoảnh". Lại có nghĩa là dáng điệu kiêu kỳ: "Lên mặt chảnh hoảnh".

Trước đó nữa, Đại Nam quấc âm tự vị (1895) "chảnh" cũng đã xuất hiện với nghĩa vừa giải thích, có điều nó còn được viết dấu ngã: "chãnh/ choãnh hoãnh". "Nói hoãnh: Nói trên, nói lớn lối". Gần đây, Đại từ điển tiếng Việt (1991) giải thích: "Chảnh: điêu ngoa". 

Nó còn hàm nghĩa lên mặt, kênh kiệu, làm cao, tỏ vẻ ta đây. Rõ ràng, ban đầu nó là "chảnh hoảnh", nhưng sau đó, rụng mất đi "hoảnh" mà vẫn rõ nghĩa. Theo thời gian còn có chảnh chẹ/ chảnh chọe/ chảnh chó/ sang chảnh/ "Chảnh như con cá cảnh"  - nhằm nâng cao hơn mức độ biểu hiện của từ này.

Có người không hề "chảnh" mà lại "điệu". Ban đầu nó còn đi chung với từ khác như "Yểu điệu: Nhẹ nhẽ, dịu dàng có vẻ lịch sự; cách điệu: cách thế, bộ tịch; làm điệu: làm cách, làm bộ nhu mì, làm thái" như Huình Tịnh Paulus Của giải thích. Lò dò bám theo từ điệu còn có: điệu đà, điệu đàng… Gần đây, lại nghe có "điệu chảy nước", có thể hiểu là điệu quá cỡ thợ mộc, vượt ngưỡng khiến nó phản tác dụng.

Mà "điệu" còn đồng âm với "điệu" là "dẫn đi, đưa đi, bắt đi". Truyện thơ Nôm Nhị độ mai có câu: "Bấy giờ, công tử đứng ngoài/ Trông vào đã thấy tơi bời điệu ra". Điệu còn là dáng bộ "Nét buồn như cúc, điệu buồn như mai" (Truyện Kiều).

Trong khi đó, có những từ đã tồn tại, nhưng lại biến mất theo năm tháng; hoặc nó đã có hàm nghĩa khác. Tất nhiên. Xin dừng lại ở từ "mỗ". Lâu nay, ai cũng biết "mỗ": 1. Tôi, ta, tiếng tự xưng: "như mỗ đây"; 2. Tiếng dùng để chỉ người, nơi, vật không rõ tên cụ thể: mỗ xứ, mỗ danh. Thế nhưng khi đọc thơ văn cổ, khi gặp từ "mỗ" lại không thể hiểu theo nghĩa đó.

Khảo sát thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, Tiến sĩ Trần Trọng Dương còn giải thích "mỗ" (từ cổ) theo nhiều nghĩa, xin lược ghi: 1. Thường đứng trước danh từ phiếm chỉ, nọ, nào đó, chỉ người hay sự vật nào đó chưa biết một cách rõ ràng xác định. "Thủy chung mỗ vật đều nhờ chúa/ Động tĩnh nào ai chẳng phải sày"; 2. Trỏ đối tượng đã nhắc đến, hoặc đối tượng mà ai cũng biết đến. "Ở thế những hiềm qua mỗ thế/ Có thân thì sá cốc chưng thân", mỗ thế: cuộc đời này; 3. Ngôi tự xưng, ta, có thể là chủ ngữ, cũng có thể làm tính từ với nghĩa "của ta". "Phú quý chẳng tham thanh tựa nước/ Lòng nào vạy, mỗ hây hây"; 4. Trỏ số lượng nhỏ, chút, mảy may. "Từ ngày gặp hội phong vân/ Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân"; 5. Một. "Trúc thông hiên vắng trong khi ấy/ Nừng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm".

Chiều rồi. Dừng tay thôi, không gõ phím nữa. Tuy nhiên cũng nên thòng thêm chi tiết này, đọc quyển hồi ký Xứ Đông Dương của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, lại thấy có một chi tiết lạ lùng về nhân vật Tổng đốc Lộc: "Ông ta muốn được chôn đứng gần sông, nên đã cho đào trước nhà một cái hố vừa với khổ người". Tại sao lại chôn đứng? Rất tiếc viên Toàn quyền Đông Dương chỉ cho biết đến đó. 

Lê Minh Quốc
.
.