Những dòng sông đời tôi

Thứ Ba, 01/05/2018, 09:35
Tôi muốn kể câu chuyện của một chàng trai sinh trưởng tại Hà Nội - thành phố cổ có sông Hồng chảy qua, lưu lạc bao năm tháng, qua rất nhiều dòng sông và giờ đang từ sông Seine nước Pháp nhớ về tuổi trẻ và dòng Thạch Hãn của tuổi xuân mãi mãi.

Ký ức tôi trỗi dậy khi xem VTVgo bộ phim tài liệu 26 phút “Binh đoàn sinh viên” (phát sóng tối 19-12-2017 trên VTV1) của đạo diễn Nghiêm Nhan, do ông viết kịch bản và tự đọc lời bình của mình. Tôi nhận ra một số anh em và như thấy hiện lên tất cả đồng đội thời trai trẻ.

Phim quay tại Hà Nội, Quảng Trị nói về sự hiến dâng của hơn 1 vạn sinh viên giáo viên Hà Nội lên đường vào mặt trận năm 1972, một nửa đã hy sinh trong đó phần lớn nằm xuống tại Thành cổ Quảng Trị, bên sông Thạch Hãn.

Năm 1977, gia đình chị gái cả của tôi - Dược sỹ Thẩm Thị Hồng Anh từ Paris về sau mấy chục năm định cư. Giáo sư Lê Thành Khôi (cha của nhạc sĩ Nguyên Lê - cháu gọi tôi là cậu ruột), ông anh rể cả, nói với tôi: Do có chuyến thăm của Tổng thống R.Nixon và Ngoại trưởng H.Kissinger Mỹ đến Bắc Kinh nên Hà Nội mở chiến dịch Quảng Trị.

... Đầu năm 1972, 37 trường đại học Hà Nội tổng động viên giáo viên, sinh viên cho chiến trường miền Nam. Chúng tôi, các tân binh 21, 22 tuổi đời được lệnh hành quân vào Quảng Trị, Sư đoàn 304, Trung đoàn 66. 

Miền Tây Vĩnh Linh, đồi núi trập trùng, đêm tối mù mịt, lệnh truyền miệng từ đầu hàng quân xuống dưới: Chúng ta vừa vượt qua sông Bến Hải! Là khe suối hẹp, nước mấp mé gót chân. Thượng nguồn dòng sông vĩ tuyến  17, chia cắt hai miền từ  1954. Quảng Trị  1972, mùa Hè đỏ lửa.

Từ các lạch nước, tới các con suối chảy ra sông, sông chảy ra biển, những dòng sông đều gắn với kỷ niệm của mỗi người. Thuở ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã thuộc bài thơ của Tế Hanh: "Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre/ Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống dòng sông mát rượi".

Bố tôi bảo nhà mình không có quê, vì năm đời ở Hà Nội rồi, vậy quê tôi là Hà Nội. Hầu như tất cả các thủ đô đều có con sông chảy qua. Sông Hồng của Hà Nội, của tôi, trưa Hè nóng bỏng, lũ trẻ con chúng tôi, cởi tất cả quần áo, nhảy xuống sông, "Tôi dang tay ôm nước vào lòng/ Sông mở nước ôm tôi vào dạ" (thơ Tế Hanh).

Thẩm Hoàng Long chụp năm 1972 thời sinh viên, trước khi nhập ngũ: tôi chẳng sợ hy sinh vì coi như là một giấc ngủ dài,chỉ sợ nhất cụt mất một ngón tay thì không chơi đàn được.

Sau mùa Hè 1972, tiếng súng tạm ngưng, bọn lính trẻ chúng tôi lang thang bên bờ sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Bãi cát mịn ven sông, dày đặc những bom mìn, quả đạn M16 vàng óng, bước phải tránh né, nếu sảy chân là toi đời. Lúc đó, chúng tôi đâu hình dung được có bao nhiêu thi thể chiến binh của cả hai phía đã nằm dưới lòng sông...

Hiệp định Paris được ký kết đúng ngày sinh nhật tôi, 27-1-1973, lính tráng sướng quá, hòa bình rồi, bắn chỉ thiên như pháo hoa, hết nửa cơ số đạn của một chiến dịch!

Nhưng tiếng súng vẫn nổ. Đơn vị chúng tôi được lệnh hành quân lấy lại cảng Cửa Việt, cảng biển duy nhất của Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, bị quân đội Việt Nam Cộng hòa lấn chiếm. Một tiểu đội trinh sát được cử đi nắm tình hình. Anh Cường đại đội trưởng bảo tôi: Long là rồng, rồng thì bơi giỏi, nên cử cậu vào đội 10 chiến sỹ đi trinh sát, phải vượt sông Cam Lộ. Đêm tối đen mịt.

Đến bờ sông, chúng tôi cởi hết quần áo, balô, súng đạn gói kín vào tấm nilon Trung Quốc thành cái phao, tồng ngồng nhảy xuống nước, bơi qua sông. Cập bờ bên kia, lau người tạm khô, ba lô súng đạn trên lưng, chúng tôi tiến về phía Cửa Việt. 

Trời mưa lất phất, đường ruộng sống trâu, trơn như đổ mỡ. Đêm cuối tháng, trời tối đen như mực, chẳng ai nhìn thấy ai. Chúng tôi nối đuôi nhau bước dò dẫm.

Bỗng "huỵch, huỵch", giẫm phải vật gì đó mà đường đất quá trơn, tôi ngã cùng ba lô nặng trên lưng. Đôi dép cao su văng đâu mất. Cả bọn cùng mò mẫm tìm quanh: không thấy. 

Đi chân đất trong rừng hay lội suối thì được, song tôi không thể đi chân không dép trên đường trơn sống trâu, vài bước là trượt ngã với ba lô súng đạn. Hay là loại lính công tử Hà Nội mặc áo nilon, phóng xe máy Peugeot bát phố như tôi không quen đi đất?

Chắc không phải vậy vì bốn năm rèn luyện ở trường Đại học Thể dục Thể thao Từ Sơn, mấy tháng huấn luyện tân binh với những ngày đêm hành quân vào chiến trường đã làm tôi quen vượt gian khó. 

Ngồi xổm, hai tay quờ quạng tìm dép trên thửa ruộng lúa đã gặt mãi không thấy. Mò mẫm suốt đêm, đến rạng sáng thì thấy mỗi chiếc một nơi, chỏng trơ ở góc ruộng. Chán ê ẩm, tôi đành quay trở lại đơn vị.

Chẳng kỷ luật phê bình gì hết vì thời chiến, đâu có thì giờ mà họp hành kiểm điểm, đấu đá nhau như ở các cơ quan sau này. Vả lại, tôi đâu có lỗi gì. Chỉ tiếc lúc bơi sông lên mặc quần áo, tôi làm rơi mất tấm ảnh cô bạn gái. Lính trẻ chúng tôi vào chiến trường, chẳng biết sống chết lúc nào, luôn mang theo kỷ vật của người thân. 

Những tấm ảnh là nguồn động viên hữu hình giúp người lính lạc quan về tương lai đoàn tụ tươi sáng. Ra trận, tôi không sợ chết, vì coi như là một giấc ngủ dài, chỉ sợ nhất bị thương cụt mất một ngón tay, không chơi được đàn accordéon. 

Tôi học accordéon từ 15 tuổi ở ông Cẩn phố Bà Triệu. Từ năm thứ nhất Đại học TDTT Từ Sơn, tôi đã chơi trong các đêm văn nghệ của khóa.

Đặc biệt, năm 1971, hội diễn văn nghệ của trường ĐH tại Từ Sơn ở hội trường lớn, có mời thêm một số nhạc công của Nhạc viện HN. Tôi độc tấu accordeon bài Sông Lô của Văn Cao, một bài hay và khó. 

Trước khi hành quân vào Nam, tháng 8-1972, Đoàn Văn công của Trung đoàn 568, quân khu Tả ngạn đến đơn vị tôi biểu diễn động viên bộ đội chuẩn bị đi B (miền Nam). Tôi đã độc tấu bài Sông Lô sau 30 phút ôn luyện lại (vì mấy tháng ở bộ đội có sờ đến đàn đâu). 

Nhiều lần dịch chuyển nơi ở, tôi chẳng còn ảnh cũ nữa. Thật cay đắng cho một kỹ sư chuyên về máy ảnh. Nhà tôi ở Pháp có piano, rảnh rỗi là tôi chơi đàn. Tôi rất thích nghe nhạc cổ điển, nhất là Mozart, vì cảm thấy đầu óc hoàn toàn thư giãn sau lúc làm việc.

... Rời tuyến lửa ác liệt, may mắn tôi trở về không bị thương. Cô bạn tôi rất đẹp, người cao ráo, là diễn viên múa solo của Đoàn Ca múa nhân dân Trung ương (nay là Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam). Chúng tôi rất cảm tình với nhau.

Có lần tôi trêu cô ấy, đang nói chuyện về "nước sông, công lính" - câu truyền miệng của bộ đội, thì tôi lại trẹo sang hướng khác, mà còn vô duyên nữa, tôi bảo, mọi người hay nói: "Má văn công mông bộ đội". Ý nói mông bộ đội bạ đâu ngồi đấy, còn má văn công thì... (xin lỗi các chị em nghệ sỹ). Tôi tưởng cô ấy giận, may quá, ngược lại: cô ấy đấm vào lưng tôi thùm thụp và chìa đôi má mũm mĩm lúm đồng tiền của mình ra: "Đây" má văn công" của anh đây!".

Tác giả Thẩm Hoàng Long đứng ở mũi Đại Lãnh (Phú Yên) - cực Đông đất nước, nơi đón ánh bình minh đầu tiên ở Việt Nam.

Thấm thoắt đã 45 năm trôi qua, nhưng các địa danh: Cồn Tiên, Dốc Miếu, Ái Tử, cao điểm 241, 544, thành cổ Quảng Trị, Đầu Mầu, đường Chín... của cuộc chiến ác liệt vẫn khắc sâu trong trong tâm trí tôi.

Sau 1975, vào Sài Gòn, tôi gặp anh Hoàng Cơ Môn, con bác sỹ Hoàng Cơ Bình (1909-1988) - nguyên Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Bắc Việt, ứng cử viên Tổng thống Việt Nam Cộng hòa tháng 9-1967. 

Bố tôi là con nuôi cụ Hoàng Huân Trung (1877-1950), cựu Tuần phủ, Hội trưởng Hội Khai trí Tiến Đức, thân sinh của bác sỹ Hoàng Cơ Bình, nên bố tôi mới lấy họ Hoàng làm tên đệm: Thẩm Hoàng Tín (1909 - 1991, Thị trưởng Hà Nội năm 1950 - 1952). 

Anh Hoàng Cơ Môn làm phóng viên chiến trường của quân đội Việt Nam Cộng hòa, năm 1972, tác nghiệp tại chiến trường Quảng Trị. Sau này, hai anh em nói chuyện với nhau, tôi bảo: Lúc đó mà gặp anh, đâu biết ai là ai, có khi cũng "tiu" nhau rồi đấy. 

Cả hai cùng cười. Năm 1973, chúng tôi được lệnh đón tiếp "Các anh em chiến thắng trở về" bên bờ sông Thạch Hãn. Hiệp định Paris quy định phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa trao trả toàn bộ tù binh phi công Mỹ, phía Việt Nam Cộng hòa trao trả những tù binh Bắc Việt...

Bờ phía Nam Thạch Hãn, lá cờ vàng ba sọc đỏ  rất to, bay chầm chậm theo chiều gió, phát loa bài hát: "Ngày trở về anh bước lê trên quãng đường đê sau lũy tre nắng vàng hoe, vườn rau trước hè chờ đón ngày về..." (Phạm Duy). Phía bờ Bắc, lá cờ đỏ sao vàng tung bay, vang lừng các ca khúc  cách mạng sôi nổi.

Nhìn sang bờ Nam, thấy một núi quần áo màu nâu, quần áo tù các anh đã trút bỏ. Đợt đầu tiên, chúng tôi lội ra mép sông, cõng thương binh cụt chân tay vào bờ. Thương quá các anh - Ngày trở về, mất một phần thân thể!

Những năm 80 thế kỉ trước, mỗi chuyến công tác từ Hà Nội vào Sài Gòn bằng tàu hỏa qua sông Thạch Hãn, tôi thường đứng ngoài hành lang cửa sổ hoặc chỗ nối toa, ngắm dòng sông với bao cảm xúc, kỷ niệm dạt dào của tuổi trẻ.

Sau 30 năm định cư tại Paris, những kỷ niệm về các dòng sông  Bến Hải, sông Thạch Hãn, sông Hồng cuộn sóng quê hương tôi, đến sông Seine nước xanh lam thơ mộng quyện hòa trong xúc cảm. 

Sông Seine, với anh cả Tháp (Tour) Eiffel kiêu hãnh đứng chống nạnh soi bóng xuống Mẹ Seine đã chứng kiến những tên phát xít Đức cuối cùng tháo chạy khỏi Paris năm 1944, không thể không liên tưởng đến người em hai. 

Đó là Cầu Long Biên Hà Nội (cùng một kiến trúc sư  thiết kế) như tháp Eiffel nằm ngang, duỗi dài trên Mẹ sông Hồng cuộn sóng, đã đếm đến người lính Pháp cuối cùng rời Hà Nội năm 1954.

Mọi thứ cứ trôi đi... Nhưng tình yêu thương sẽ mãi trường tồn, như nước của các dòng sông không bao giờ ngừng chảy. 

Thẩm Hoàng Long (Paris)
.
.