Kỷ niệm 40 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2015)

Đất mẹ bao dung

Thứ Ba, 28/04/2015, 16:36
40 năm sau chiến tranh, non sông một dải, câu hỏi về sự hòa hợp dân tộc giữa đất nước với những người Việt di cư sang Mỹ vẫn là vấn đề lớn. Suy ngẫm sâu xa truyền thống nhân văn của dân tộc “đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”, sự bao dung, độ lượng của đồng bào dòng máu Lạc Hồng cùng với xu thế hòa bình, hợp tác toàn cầu, việc gác lại hận thù, cùng đoàn kết hướng về nguồn cội là yêu cầu, đòi hỏi khách quan.

Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh, nhà ngoại giao lão thành, nguyên thành viên Đoàn đàm phán Hiệp định Paris 1973 kể: Khi ông sang dự một hội thảo về chiến tranh Việt Nam tại Trường Đại học Brown (Mỹ), ban tổ chức có bố trí một chương trình giao lưu với các giáo sư và khoảng 1.000 sinh viên. Một sinh viên đã hỏi: “Thưa ngài Đại sứ, Việt Nam đã chiến thắng Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc nhưng tại sao lại có chuyện hàng triệu người bỏ nước ra đi?”.

Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh trả lời, việc có hàng triệu người rời Việt Nam sang Mỹ sau 30-4-1975 là sự thật lịch sử. Điều này có nhiều nguyên do. Thứ nhất là trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội, các nhà chức trách Mỹ cũng như chính quyền Sài Gòn qua mấy đời tổng thống đều tuyên truyền “nếu Việt Cộng giải phóng sẽ có nạn “tắm máu”.

Việc tuyên truyền như vậy khiến nhiều người lo lắng nên sau 30-4-1975, họ tìm cách ra đi càng nhanh càng tốt. Những người ra đi gồm người thuộc chính quyền Sài Gòn cũ, những người thấy ở lại làm ăn không thuận lợi, một số người giàu có và số khác không thuộc các thành phần trên cũng đi vì sợ “tắm máu”. Có một số người nữa thấy kinh tế Việt Nam nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên cũng kiếm đường ra đi…

“Nhưng dù nguyên nhân gì và đi như thế nào, chúng tôi đều coi họ thuộc dân tộc Việt Nam và luôn luôn sẵn sàng mở cửa để ai về thăm, ai về nước, ai liên lạc lại, cả ba mức đó chúng tôi đều chấp nhận, mở cửa rộng rãi” - Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh giải thích.

Việc nhiều người Việt Nam di cư sang Mỹ sau ngày 30-4-1975 là sự thật và nằm trong bối cảnh lịch sử chịu nhiều tác động chi phối lúc bấy giờ nên không thể lấy việc di cư như vậy để phán xét, quy chụp qua lăng kính màu xám.

Trong lịch sử của nhiều quốc gia trên thế giới, việc một bộ phận người dân bên thua cuộc di tản sang nước khác sau khi kết thúc chiến tranh cũng là chuyện bình thường bởi bối cảnh hậu chiến đặt ra những vấn đề có tính quy luật khiến sự di tản khó tránh khỏi. Bây giờ, sự di cư của người Việt sang Mỹ đã là một vấn đề lịch sử và cũng không phải là lúc ngồi soát xét lại tại sao có chuyện như vậy để đổ lỗi nguyên nhân, trách nhiệm của bên nào.

Lịch sử không xoay vòng để những người di cư tìm lại câu hỏi nên đi hay ở giữa bối cảnh quá khứ với hiện tại. Điều quan trọng là làm thế nào để việc hòa hợp dân tộc được thực hiện thiết thực, người Việt dù ở bất cứ đâu, bất cứ thành phần, địa vị nào cũng đều hướng về Tổ quốc, đoàn kết vì tương lai đất nước.

Điều kiện để hòa hợp dân tộc là gì?

Tháng 7/1995, Việt Nam và Mỹ tuyên bố bình thường hóa quan hệ và trở thành “đối tác toàn diện” thông qua hợp tác trên các lĩnh vực. Đây cũng chính là chìa khóa cơ bản để mở ra tương lai hòa giải, hòa hợp dân tộc. 20 năm với những thành tựu cơ bản trong quan hệ Việt – Mỹ và quan niệm, tư duy về “bên kia chiến tuyến” cũng đã khác trước, sự thay đổi phù hợp dòng chảy lịch sử thời đại ngày nay.

Đoàn đại biểu Việt Kiều chụp ảnh lưu niệm dưới chân cột mốc chủ quyền đảo Sơn Ca (quần đảo Trường Sa) tháng 4/2014. Ảnh: Đoàn Xuân Tuyến.

Điểm cốt yếu nữa trong hòa hợp dân tộc chính là quan điểm của “người mẹ”. Con cái có thể ruồng bỏ cha mẹ mà đi nhưng trong trái tim người mẹ, đọng lại sự bao dung, độ lượng, sẵn sàng dung thứ khi người con bỏ đi nhận ra lẽ phải.

Tháng 6/2007, trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có cuộc gặp gỡ với kiều bào tại quận Cam - một địa chỉ hội tụ đông đảo người Việt di cư sau 30-4-1975.

“Nếu ai đó còn có ngần ngại, còn có bất đồng, chúng ta hãy nói với các bạn ấy rằng mẹ hiền Việt Nam lúc nào cũng dang rộng cánh tay đón nhận tất cả những người con của mình về với Tổ quốc. Không có lý do gì, sự bất đồng gì ngăn cản sự đoàn kết, thống nhất quốc gia trong sự nghiệp phát triển, xây dựng đất nước của chúng ta. Tôi cũng đề nghị với những người có những cử chỉ bất đồng, chúng ta hãy hiểu cho họ rằng những thông tin đưa đến cho họ chưa đầy đủ. Họ chưa có điều kiện trực tiếp quay về quê hương đất nước, trực tiếp chứng kiến những đổi thay nhanh chóng, những tiến bộ đang diễn ra trên đất nước chúng ta” - Chủ tịch nước chia sẻ.

Khoảng 1.000 kiều bào đại diện cho cộng đồng người Việt tại quận Cam và nhiều tiểu bang khác của Mỹ đã đồng loạt đứng lên vỗ tay xúc động khi nghe những lời nói này của Chủ tịch nước Việt Nam.

Tháng 7/2013, nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng dành thời gian gặp mặt đại diện cộng đồng người Việt, lưu học sinh, sinh viên Việt Nam, bạn bè Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Tại cuộc gặp này, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh rằng, Việt Nam quyết tâm tiếp tục công cuộc đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, không ngừng tạo cơ hội để tăng cường quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tăng cường gắn kết với cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 26/3/2004 xác định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước.

Do đó, một trong những chủ trương được Đảng ta khẳng định rõ trong Nghị quyết này là: “Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”.

Nhiều cuộc hành trình về với quê hương đất mẹ của người Việt ở Mỹ đã được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện. Tháng 4 năm ngoái, đoàn Việt kiều ở Mỹ sau khi thăm quần đảo Trường Sa đã đến viếng nghĩa trang liệt sĩ Bình Dương và nghĩa trang nhân dân Bình An (nghĩa trang quân đội Biên Hòa thời Việt Nam Cộng hòa).

Trong thành phần viếng thăm có mặt những người có “bề dày” chống đối như ông Nguyễn Ngọc Lập, nguyên thiếu úy thủy quân lục chiến quân đội Việt Nam Cộng hòa (Việt kiều California); luật sư David Nguyễn, trưởng ban vận động và tổ chức bầu cử hội đồng đại diện cộng đồng người Việt quốc gia Houston và vùng phụ cận hay nhà báo Lý Kiến Trúc, câu lạc bộ văn hóa và báo chí quận Cam…

Khi thăm viếng ngôi mộ mang tên hạ sĩ Hà Hữu Lộc, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 43, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn nói với ông Nguyễn Ngọc Lập rằng: “Bia mộ vẫn còn nguyên phiên hiệu, đơn vị… Những ngôi mộ thế này xây từ ngày xưa có ai phá đâu… Nếu đất nước không có đại đoàn kết thì những ngôi mộ kia có còn những tấm bia nguyên vẹn như vậy không?”.

Lặng nhìn ngôi mộ từng là đồng đội của mình, ông Lập thừa nhận: “Chúng tôi đến để đối diện với sự thật”. Còn nhà báo, Việt kiều Lý Kiến Trúc thừa nhận: “Trang sử Việt Nam đã bước qua trang mới, trang sử cũ khép lại. Quên đi những trang sử đau khổ của Việt Nam mà hãy phát triển Việt Nam, muốn vậy phải giải quyết khối đại đoàn kết của người Việt trong nước và người Việt ở hải ngoại, hòa giải, hòa hợp lẫn nhau…”.

Dù đã có những chuyển biến trong nhận thức, hành động thì một sự thật là cho đến nay, sau 4 thập kỷ chấm dứt chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề hòa hợp dân tộc vẫn còn đó những điều chưa được khỏa lấp. Trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, vẫn còn đó những người chống đối sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước Việt Nam, thậm chí chống đối quyết liệt suốt 40 năm qua. Không thay đổi nhận thức với chính mình, họ lại truyền bá tư tưởng này cho con cái, định hình một cách nhìn lệch lạc, thù hận về nơi vốn là gốc gác, tổ tiên của mình, dòng họ mình.

Như trên đã nói, điều kiện tiên quyết cho hòa hợp dân tộc chính là truyền thống nhân nghĩa của người Việt Nam qua mấy nghìn năm, nay cụ thể hóa bằng chủ trương, chính sách và hành động thực tiễn của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Cùng với đó là quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, sự hợp tác trong tương lai sẽ đem lại nhiều lợi ích cho hai nước và cho sự ổn định và an ninh của khu vực. Hơn lúc nào hết, những người con ở xa đất mẹ cần nhìn nhận rõ truyền thống và xu hướng đó, vượt lên ranh giới “bên kia chiến tuyến” để đoàn kết, hướng về nguồn cội một cách chân tình, thực tâm chứ không phải là sự soi xét, đưa ra các yêu sách mang ý đồ chính trị.

An Nhi
.
.