Rượu thơ và tình bạn thi sỹ

Thứ Bảy, 05/01/2008, 11:00
Cổ nhân có câu: "Dĩ tửu trợ văn, dĩ văn hội hữu" (lấy rượu giúp cho cảm hứng văn chương, lấy văn chương để kết giao bạn bè). Lại có thêm quan niệm: Rượu là sự thăng hoa của ngũ cốc, thơ là sự kết tinh của ngôn từ. Chỉ bằng từng ấy có lẽ đã đủ để nhìn ra một mối liên hệ thật mật thiết giữa rượu, thơ và thi sỹ.

Trên thực tế của nhiều trường hợp, đó là cái tam vị đã làm nên sự nhất thể: Tình bạn giữa những con người trong giới bút mặc. Tình bạn ấy diễn ra trong đời thường, và cũng có lúc, như một sự ngẫu nhiên thú vị, nó in dấu trong thơ, nó giúp người yêu thơ hiểu thêm về các thi sỹ và tình cảm bằng hữu mà họ dành cho nhau.

Năm 1937, trên báo "Đàn bà" xuất hiện một bài thơ của Nguyễn Vỹ, có cái tên "Gửi Trương Tửu". Khi soạn "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh đã đưa bài thơ này vào sách và cho rằng: Đây "mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ". Mở đầu bài thơ đã là những câu ngây ngất hơi men: "Nay ta thèm rượu nhớ mong ai/ Một mình nhấm nháp chẳng buồn say/ Trước kia hai thằng hết một nậm/ Trò chuyện dông dài mặt đỏ sậm/ Nay một mình ta một be con/ Cạn rượu rồi thơ mới véo von...".

Rượu làm sống lại hồi ức của tác giả về người bạn thân thiết Trương Tửu, về những kỷ niệm khi hai người còn gần gũi bên nhau. Và đây là những câu thơ mà nhiều người đã thuộc nằm lòng, có thể nói, những câu thơ "xanh mãi với thời gian" bởi chất kiêu bạc phóng túng của chúng: "Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác/ Mà vẫn coi tiền như cái rác/ Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang/ Rủ nhau chè chén nói huênh hoang/ Xáo lộn văn chương với chả cá/ Chửi Đông, chửi Tây chửi tất cả/ Rồi ngủ một giấc mộng với mê/ Sáng dậy, nhìn nhau cười hê hê".

(Sau này, trong bài viết "Kỷ niệm về Trương Tửu", Nguyễn Vỹ kể khá chi tiết về việc ông cùng Trương Tửu và Vũ Trang sống với nhau trên gác trọ phố Khâm Thiên - khoảng 1934, 1935. Mỗi sáng về mùa đông, ba người lại trùm ba cái chăn bông ngồi ở phòng khách, uống trà, nói chuyện văn chương. Nhiều tháng họ không có tiền, nhưng có lần Nguyễn Vỹ được 10 đồng nhuận bút, Trương Tửu lấy 4 đồng uống rượu đế ăn thịt cầy, Vũ Trang lấy 4 đồng đi Nam Định để biểu diễn thôi miên. Trong bài viết này, Nguyễn Vỹ cũng tỏ ra rất khâm phục sức đọc sức nghĩ và tài hùng biện của Trương Tửu).

Với "Gửi Trương Tửu", Nguyễn Vỹ công khai bộc lộ nỗi chán chường cá nhân trước tình cảnh cùng quẫn và sự bế tắc tinh thần của những người sống bằng ngòi bút viết văn, viết báo trong một xã hội Việt Nam thuộc địa và tư sản hóa (câu thơ được truyền tụng nhiều nhất: "Nhà văn An Nam khổ như chó"). Đó cũng đồng thời là nỗi chán chường trước tình cảnh của hai người bạn: "Anh đi che tàn một lũ ngốc... Còn tôi bưng thúng theo đàn bà". Nhưng không chỉ có vậy, "Gửi Trương Tửu" còn là sự gửi gắm những ước mơ của hai người bạn Nguyễn Vỹ - Trương Tửu.

Trong văn bản bài thơ được in ở "Thi nhân Việt Nam", ước mơ ấy hiện ra khá mờ nhạt: "Tôi làm trạng nguyên, anh tể tướng/ Rồi anh bên võ tôi bên văn/ Múa bút tung gươm hả một phen". Nó, ước mơ ấy, sẽ thực sự là ước mơ cháy bỏng nếu ta hoàn nguyên 14 câu thơ đã bị chính quyền thực dân kiểm duyệt (theo tư liệu mà gia đình giáo sư Trương Tửu hiện còn lưu giữ): "Cho bõ căm hờn cái xã hội/ Mà anh thường kêu mục, nát, ruỗng/ Cho người cày ruộng kẻ làm công/ Đều được yên vui hớn hở lòng/ Bao giờ chúng mình gạch một chữ/ Làm cho đảo điên pho lịch sử/ Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa/ Hất mồ nhổm dậy cười say sưa/ Để xem hai chàng trai quắc thước/ Quét sạch quân thù trên đất nước/ Để cho toàn thể dân Việt Nam/ Đều được tự do muôn muôn năm/ Để cho muôn muôn đời dân tộc/ Hết đói rét, lầm than, tang tóc..."

Những câu thơ như vậy, tất nhiên, không cách gì tránh khỏi được nhát kéo kiểm duyệt của chính quyền thực dân. Nhưng quan trọng là, qua những câu thơ đó, Nguyễn Vỹ đã thực sự hiểu, chia sẻ với nguyện vọng và tư tưởng của bạn. Điều này sẽ được chứng minh nếu chúng ta không quên rằng, từ giữa những năm 30, nhà văn - nhà phê bình văn học Trương Tửu đã bắt đầu đọc sách của chủ nghĩa Marx, tiếp cận với báo của Đảng Cộng sản do Trần Huy Liệu phụ trách, rồi tham gia chống việc Bảo Đại vận động tranh cử và vì thế bị chính quyền thực dân kết án.

Tinh thần đấu tranh hừng hực - như đoạn thơ 14 câu trên cho thấy - hẳn đã thường trực trong tư tưởng Trương Tửu, và cũng hẳn đã lôi cuốn Nguyễn Vỹ. Nhưng lôi cuốn là một chuyện, cùng đi được với nhau trên một con đường hay không lại là một chuyện khác. Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Vỹ, sau cao trào, đã kết lại bài thơ gửi bạn của mình bằng một thoái trào: "Mẹ cha cái kiếp làm thi sỹ/ Chơi cờ nước cao gặp thế bí/ Rồi đâm ra điên ra vẩn vơ/ Rốt cuộc chỉ còn... mộng với mơ".

Hơi men vẫn còn ngây ngất ướp lấy bài thơ khi tác giả chua thêm ở cuối bài năm chữ: "Viết rồi vẫn còn say", chính cái hơi men đã tái hiện một tình bạn và góp phần làm nên sức trường tồn của một thi phẩm.

Nếu tình bạn của Nguyễn Vỹ và Trương Tửu, xét về tuổi tác giữa hai người, có thể gọi là tình bạn đồng tuế, thì tình bạn của hai nhà thơ Tản Đà và Trần Huyền Trân là một tình bạn vong niên (Tản Đà sinh năm 1889, Trần Huyền Trân sinh năm 1913). Thật ra không có tư liệu ghi chép - của Tản Đà, của Trần Huyền Trân hay của những người khác - về tình bạn vong niên này, vì thế chúng ta ngày nay rất khó hình dung về nó một cách cụ thể. Nhưng may sao trong di sản thơ ca của nhà thi sỹ có cái bút danh "đượm mùi khăn yếm" Trần Huyền Trân, chúng ta đọc được ba bài thơ cho phép khẳng định sự tồn tại của một tình bạn như vậy: "Mộng uống rượu với Tản Đà", in trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1938; "Khi đã về chiều", in trên Tao Đàn năm 1939 với lời chua ở cuối bài: "Sau lần thăm Tản Đà, Ngã Tư Sở 1938"; "Viếng nhau", viết năm 1939, sau cái chết của Tản Đà. Trong ba bài thơ kể trên, "Mộng uống rượu với Tản Đà" xứng đáng được coi là một thiên tuyệt bút và là một chứng lý cho sự hòa quyện thơ, rượu và mối đồng cảm thi nhân. Mở đầu bài thơ đã là một lời mời, chính xác là một lời giục giã tiếp tục tiệc rượu: "Cụ hâm rượu nữa đi thôi/ Be này đã cạn hết rồi còn đâu!".

Khi viết bài thơ này, Trần Huyền Trân mới 25 tuổi, còn Tản Đà đã 50 (ngày trước tuổi như thế đã kể là già, gọi bằng cụ cũng không đến nỗi... sái). Như vậy là ông trẻ giục ông già tiếp rượu. Họ rót rượu, uống rượu, nhưng thật ra không chỉ có vậy: "Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này". Ngay ở câu thơ, mà theo tôi là hay đến bàng hoàng này, rõ ràng đã thấy có một sự lẫn lộn theo đúng cách của các tửu đồ - thi sỹ: Lẫn lộn giữa việc rót rượu với việc rót nỗi đau lòng cho nhau. Sự lẫn lộn ấy còn được "trộn" thêm vào cả cách nói chuyện đầu Ngô mình Sở ở bốn câu tiếp theo: "Say đâu? Lòng chửa được đầy/ Cái đau nhân thế thì say nỗi gì?/ Đường xa ư cụ? Quản chi/ Đi gần hạnh phúc là đi xa đường".

Ông già lo ông trẻ quá chén sẽ say, thì ông trẻ lại nói sang chuyện đau đời (là thứ không say được). Ông già sợ nỗi ông trẻ rượu tàn phải đi về đường xa, thì ông trẻ lại ngoặc tới chuyện đường đi trong cuộc đời. "Thiếu giả hoài chi, lão giả an chi" (người trẻ ôm ấp lý tưởng cao xa, người già lo chuyện sao cho được yên ổn), cuộc đối thoại trong tiệc rượu giữa Tản Đà và Trần Huyền Trân đúng là đã diễn ra với tinh thần ấy: Ông già nói chuyện thiết thực, ông trẻ lại chỉ ưa triết lý! Nhưng, sự thực là gì ở đây, nếu không phải là việc người trẻ thấu hiểu và đang nói hộ người già những gì ông đã trải nghiệm, đã trăn trở, đã đau đáu và giờ thì ông cất nó vào trong im lặng? Có lẽ chính vì sự thấu hiểu ấy mà Trần Huyền Trân đã khép lại cuộc rượu với người bạn già, đấng "trích tiên" Tản Đà bằng những câu thơ thấm đẫm hơi men và sự sẻ chia sâu sắc: "Rót đi, rót... rót đi thôi/ Rót cho tôi cả năm mươi tuổi đầu/ Nguồn đau cứ rót cho nhau/ Lời say sưa mới là câu chân tình".

Chúng ta không nên quên rằng bài "Mộng uống rượu với Tản Đà", cũng như bài "Khi đã về chiều", được Trần Huyền Trân viết trong cùng năm 1938, một năm trước khi Tản Đà qua đời. Trên thực tế, không phải chờ tới lúc này, mà từ cuối những năm 20 Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã mất đi địa vị thi bá của nền thơ Việt. Khi phong trào Thơ Mới trỗi dậy, Tản Đà bị coi là đại diện của trường phái thơ cũ và trở thành cái đích cho những người bênh vực Thơ Mới tha hồ chế giễu, "ngắm bắn".

Những năm cuối đời của ông quả thực là một nỗi xót xa nếu so với thời kỳ hoàng kim, khi ông một mình làm nên "cơn gió lạ" thổi suốt trong Nam ngoài Bắc, "túi thơ đeo khắp ba kỳ, thiếu gì rừng biển thiếu gì gió trăng": Ông độ nhật rất vất vả bằng nghề đoán số Hà Lạc và dịch thơ Đường in báo. Chính vì thế, việc một thi sỹ đương thời như Trần Huyền Trân đến với ông, chung chén rượu và chia sẻ nỗi niềm với ông sâu sắc đến thế, thì không đơn giản chỉ là một biểu hiện của lòng trắc ẩn nữa: Đó là một tình bạn.

Trong bài "Khi đã về chiều", người bạn trẻ đã ngậm ngùi vẽ nên cảnh tiêu điều của người bạn già: "Hồn thơ về lánh bụi hồng/ Quyển vàng tóc bạc nằm chung một lều/ Có đàn con trẻ nheo nheo/ Có dăm món nợ eo sèo bên tai/ Chừng lâu rượu chẳng về chai/ Nhện giăng giá bút một vài đường tơ/ Nghiên son lớp lớp bụi mờ/ Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi". Nỗi ám ảnh về rượu vẫn xuất hiện ở đây: Tản Đà không thể sống mà thiếu rượu, "chừng lâu rượu chẳng về chai", nghĩa là trong mắt Trần Huyền Trân, cái nghèo của Tản Đà đã trở nên bi kịch lắm rồi!

Dễ hiểu tại sao Trần Huyền Trân lại "nhạy" với cảnh nghèo của người bạn già đến thế nếu ta đọc những câu thơ ông viết về tình cảnh của chính mình: "Đã có lần khói bếp không lên/ Vợ ngược, con xuôi, túi hết tiền/ Chồng gục cả lòng trên giấy mực/ Đen ngòm mặt đất tối như đêm/ Trang lại trang máu lẫn mồ hôi/ Từng dòng tay bút đã buông xuôi/ Giữa khi ông chủ buôn văn ấy/ Tiệc rượu lầu cao ngả ngốn cười" (Đời một nhà văn). Vẫn có rượu ở đây, nhưng là rượu của người giàu, thừa mứa và xấc xược, trái ngược hẳn với bữa rượu của nhà thơ nghèo. Đồng bệnh tương liên, cái nghèo hẳn càng làm xiết chặt thêm tình bằng hữu giữa hai thi sỹ thuộc hai thế hệ.

Rượu, thơ và những tình bạn thi sỹ, đó là cái hằng số xuyên suốt lịch sử thơ ca nhân loại tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Bài viết này chỉ lẩy ra hai trường hợp từ làng thơ Việt Nam những năm 30. Còn biết bao trường hợp khác trong cùng thời kỳ ấy? Còn biết bao trường hợp nữa mà chúng ta có thể nói tới trong những giai đoạn trước đó và những giai đoạn sau này? Dù thế nào đi nữa thì có lẽ, đó cũng là một trong những dấu ấn đặc biệt, sâu sắc và thú vị, mà người thơ (thi nhân) để lại trong lòng người yêu thơ

Hoài Nam
.
.