Mùi sầu riêng ở cữa ngõ Xuân Lộc

Chủ Nhật, 15/05/2016, 06:02
Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975. 

Sư trưởng Nam Phong lệnh không được ai chặt chuối của dân. Rừng chuối Xuân Lộc rộng đến nỗi có đường ngang dọc để xe ôtô đi thu hoạch. Trong thời gian tấn công Xuân Lộc, anh em “làm báo” của sư đoàn như Phùng Khắc Bắc, tôi, Dương Huy... được điều về hầm chỉ huy Sư đoàn để hàng ngày nghe thông tin từ các mũi. Anh Phùng Khắc Bắc (Nhà văn, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1992 với tập thơ Một chấm xanh, mất năm 1990) vào B2 (chiến trường Đông Nam Bộ) từ đầu năm 1967, ở khu 6.

Trông anh gầy và đen như  gỗ lũa, chỉ đôi mắt là long lanh sáng. Tính anh hiền hậu, hay cười. Anh làm ở Ban tuyên huấn Sư đoàn, chuyên trách “bản tin”. Cuối năm 1973, anh Bắc đưa Đoàn văn công Sư đoàn về biểu diễn tại cứ Đồng Xoài, bên bờ Sông Bé phục vụ tiểu đoàn tôi. Chương trình văn nghệ gồm các tiết mục của Đoàn và các tiết mục chiến sĩ “tự biên”. 

Thấy trong sổ tay của tôi có bài thơ Bài ca chốt chặn viết về những ngày thực hiện Hiệp định Paris ở đường 14, anh Đại, chính trị viên Đại đội (người Nam Hà, Việt kiều Thái Lan về nước) bắt tôi lên “ngâm” bài thơ. Tôi không ngâm được, mà đọc. Sau khi tôi đọc thơ xong, anh Phùng Khắc Bắc tìm đến, hỏi tôi làm được nhiều thơ không, có viết báo được không. 

Tác giả (bìa phải) và tổ làm báo Sư đoàn 7 ở rừng Lộc Ninh năm 1974.

Tôi bảo tôi viết báo từ hồi nhỏ học cấp 2 ở làng, còn thơ thì mới viết. Anh bảo anh chưa bao giờ làm thơ, chỉ viết ít truyện ký và báo. Sau chuyến đi ấy anh về đề nghị với Sư đoàn điều tôi lên Ban chính trị để làm bản tin. 

Đợt đánh Xuân Lộc này, anh em ở một chỗ cùng nhau nên rất vui. Đêm đầu tiên đánh cứ điểm Xuân Lộc, bộ đội ta mấy lần ôm bộc phá vào mở cửa mở, nhưng địch bắn rát quá, thương vong nhiều. 

Sư trưởng Nam Phong hét vào điện thoại chỉ huy hết mũi tiến công này đến mũi tiến công khác. Ông đang chỉ huy trận đánh mà nói năng rất tếu. Sư trưởng điện cho anh Đình chính trị viên D2 (Tiểu đoàn 2): “Cái chốt bằng cái l. trâu ấy mà một ngày rồi các anh không ăn được à? Tôi ra lệnh nội đêm nay phải ăn cho hết cái l. trâu đó , nghe rõ chưa !”. Câu ra lệnh làm mọi người trong hầm chỉ huy ôm bụng mà cười.

Đêm hôm sau, tôi được cử ra chỗ bộ đội Tiểu đoàn 2 đang đánh bộc phá mở cửa mở để tấn công một cứ điểm của địch để viết bài. Mật khẩu được phổ biến là “Sông Hồng”, phải trả lời là “Mê Công”. Tôi đi một mình trong đêm trăng mờ giữa tháng 4. Bốn bề là rừng chuối và trảng cỏ khô! Tôi đang hoang mang tìm hướng đi thì nghe một tiếng quát “Sông Hồng”. Thế là tôi quên béng việc trả lời bằng mật khẩu, mà gọi toáng lên: “Tôi là Khôi ở Ban chính trị đây!”. 

Anh chiến sĩ đến chỗ tôi, cười bảo, em được lệnh đi đón nhà báo Sư đoàn từ tối tới giờ, đợi mãi. Biết là anh bị lạc đường. Mà sao anh không trả lời bằng mật khẩu? May em là người đi đón, tiểu đoàn cho biết tên anh, nếu không thì “toi” rồi đấy!”. Tôi chui vào hầm tiền tiêu của Đại đội Bảy. Ba chiến sĩ ôm bộc phá lên đánh hàng rào bị thương, máu chảy nhiều, được băng bó tạm bằng băng cá nhân, đang nằm rên ở góc hầm, đợi cáng về  trạm phẫu thuật tiền phương. 

Mấy anh em khác lại đang cười đùa, hò hét đánh bài “tiến lên”, trông mặt mũi anh nào anh nấy điềm nhiên như chẳng có việc chỉ một vài phút nữa thôi ba người trong số họ lại bò lên hàng rào đánh bộc phá, rồi có thể hy sinh và bị thương như đồng đội đang nằm kia! Ở chiến trường miền Đông ác liệt này, không điềm nhiên như thế không sống mà  đánh giặc được!

Đêm 20-4, trước sức tấn công của Quân giải phóng, đường vô Sài Gòn bị chặt đứt ở Dầu Giây, Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa bỏ chạy khỏi Xuân Lộc, sư trưởng sư 18 là tướng Lê Minh Đảo chạy về phía Vũng Tàu bị quân giải phóng bắt. Sau này, đọc hồi ký của Thượng tướng Trần văn Trà, tôi mới hay sáng kiến cắt đứt con đường từ Xuân Lộc nối Sài Gòn ở Dầu Giây là của một đồng chí Trung đoàn trưởng trong cuộc họp giao bạn ở Bộ chỉ huy Miền, chứ không phải của ông tướng chỉ huy nào cả. 

Tại cuộc giao ban ấy, đồng chí Trung đoàn trưởng đề nghị Bộ chỉ huy Quân giải phóng điều ngay một Trung đoàn cấp tốc hành quân đường vòng đánh chiếm căn cứ địch ở Dầu Giây, thì Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa ở Xuân Lộc sẽ đầu hàng. Và Thượng tướng Trần Văn Trà đã làm như vậy và đã thành công.

Đơn vị tôi hành quân vòng qua thị xã thì đã quá nửa đêm, nên được lệnh nghỉ. Để đảm bảo bí mật, tất cả rờ rẫm mắc võng trong đêm. Nằm lắc lư trên võng, tôi nghe mùi hương quả chín thơm vào trong giấc ngủ. 

Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 4 tiến công thị xã Xuân Lộc. Ảnh: Tư liệu.

Sáng dậy, trời đất ơi, ngay trên đầu võng tôi, một trái sầu riêng trĩu xuống, thơm lừng. Tôi bật dậy, nâng trái sầu riêng lên mũi. Đó là lúc tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Thế là ta thắng rồi! Trước mắt tôi, một rừng sầu riêng mênh mông, mùa trái chín thơm lừng. 

Nghe phía đường lộ, tiếng xe tăng, xe bọc thép và xe chở bộ đội của những binh đoàn quân giải phóng vẫn ì ầm hành quân về hướng Sài Gòn. Tôi lần ra đường lộ, thấy hai bác nông dân đen nhẻm, vác cuốc, mặc quần xà lỏn, dường như các bác đang trên đường đi làm rẫy. 

Hai người đứng bên đường đang đếm từng chiếc xe quân giải phóng trùm bạt rầm rầm tiếng về phía Sài Gòn. Thấy tôi mặc quần áo quân giải phóng, các bác hồ hởi khoe: “Xe tăng, xe pháo của ta nhiều đếm hổng xiết chú ơi, tôi đếm được gần một trăm rồi, nghe pháo nổ lại quên mất, lại đếm lại !”. 

Những ngày đó đơn vị tôi đóng quân ở rừng cao su Xuân Lộc, học chính trị, điều lệnh dân vận mới để chuẩn bị đánh Sài Gòn. Chúng tôi cắt tóc, cạo râu cho nhau. “Trước một trận đánh lớn vào “Cao điểm cuối cùng”, người chiến sĩ phải đàng hoàng, chững chạc” - Sư trưởng Nam Phong nói như vậy !

Sáng 30-4, Sư đoàn 7 của tôi được lệnh xuất kích đánh chiếm Sài Gòn ở hướng Đông - Bắc, bắt đầu từ  rừng cao su Xuân Lộc. Đơn vị tôi ngồi xe bọc thép, xe tải chở quân. Còn tôi làm báo nên được đi xe máy Honda với cơ sở nội thành. Dọc đường Xuân Lộc - Biên Hoà - Sài Gòn, lính Việt Nam Cộng hòa tan tác thành từng mảng, cởi bỏ súng đạn, quân trang, quân dụng vứt ngổn ngang dọc đường như rác dày đặc. 

Một giờ chiều chúng tôi vào tới dinh Độc Lập. Sư đoàn 7 được lệnh quân quản quận 1. Bà con Sài Gòn đứng đông nghịt bên đường, phụ nữ mặc áo dài hoa, cầm cờ đỏ sao vàng vẫy chào. Sài Gòn trưa tháng 4, nắng long lanh như rót mật, hình như nắng cũng rưng rưng niềm vui. 

Đơn vị tôi tập kết ở Sở thú Sài Gòn. Các mẹ, các em Sài Gòn khoác khăn rằn, gánh tới những nồi cháo gà bốc khói thơm lựng. Các mẹ múc từng tô đưa cho chúng tôi, rồi ngồi ngắm chúng tôi ăn, như ngắm đàn con ở nhà. Tôi có cảm giác cháo gà ngon như cháo mẹ tôi nấu khi tôi còn nhỏ! Đó là bữa ăn đầu tiên của tôi trên đất Sài Gòn giải phóng!


Khôi Minh
.
.