Nữ văn sĩ Pháp Francoise Sagan: Nỗi buồn vĩnh cửu

Thứ Hai, 02/04/2007, 13:30
Niềm vinh quang giàu có từ quá sớm đã trở thành gánh nặng đến nỗi quá sức đối với Sagan, gây nên cho cuộc sống của bà rất nhiều phiền toái và trắc trở. Suốt đời, bà đã phải tựa vào nỗi buồn mà sống và chỉ tìm thấy niềm vui thực sự ở trong những trang văn.

Bà đã là một tên tuổi sáng chói trong làng văn Pháp nửa cuối thế kỷ XX. Tác phẩm đầu tay với nhan đề là một câu thơ của Paul Eluard "Buồn ơi, xin chào", xuất bản năm 1954, khi Francoise Sagan mới 19 tuổi, đã ngay lập tức "đổi đời" tác giả của nó.

Độc tố đầu đời

Giá trị của người đàn ông phụ thuộc vào phẩm hạnh của người phụ nữ mà anh ta yêu. Ngược lại, hạnh phúc của người phụ nữ cũng phụ thuộc rất nhiều vào đạo lý của người đàn ông đầu tiên mà nàng gắn bó số phận. Người đàn ông đầu tiên có ảnh hưởng tối quan trọng đến cuộc đời của Sagan là Guy Schoeller, một ông chủ xuất bản.

Chính Schoeller đã cho in và phát hành rất rầm rộ "Buồn ơi, xin chào". Chỉ trong vòng một năm đã có tới hơn một triệu bản sách được in và phát hành không chỉ riêng tại Pháp và bằng tiếng Pháp. Vai trò của Schoeller trong sự thành công tới chóng mặt của "Buồn ơi, xin chào" lớn đến mức về sau, nữ văn sĩ có lần đã nói, thực ra chất lượng nghệ thuật của tiểu thuyết không cao như người ta tưởng nhưng Schoeller đã giúp cho cuốn sách lên được tầm cao hơn chính giá trị thực của nó.

Sagan cảm phục Schoeller đến mức năm 1952, hai người đã làm lễ cưới: chú rể nhiều hơn cô dâu tới 20 tuổi (Sagan sinh năm 1935, còn Schoeller sinh năm 1915). Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của họ đã không được bền lâu.

Schoeller vốn là một tay chơi khét tiếng trong giới thượng lưu Paris thời đó, thường xuyên trượt trong những cuộc tình chóng vánh như fast-food từ mỹ nhân này sang mỹ nhân khác.

Trước mặt vợ, Schoeller thường tự biện bạch bởi lý do "sinh học": đàn ông sinh ra là đã được thiên phú nhu cầu "năm thê bảy thiếp", thậm chí còn nhiều hơn thế nữa. Chính tư duy được màu sắc hưởng thụ đến trác táng này của Schoeller đã đầu độc tâm hồn còn non trẻ của Sagan, khiến nữ văn sĩ dường như mất lòng tin vào tình cảm lứa đôi đích thực.

Chỉ sau hai, ba năm chung sống, Sagan đã cảm thấy "ngán tận cổ" đức ông chồng Don Juan của mình. Và họ đã li dị nhau. Tuy nhiên, ảnh hưởng tai hại của Schoeller đối với Sagan sẽ tồn tại lưu niên cho tới những ngày cuối cùng của Sagan trên cõi thế.

Nhuận bút có được từ "Buồn ơi, xin chào!" cũng ảnh hưởng không mấy hay ho tới Sagan. Người ta kể lại rằng, nhận được một triệu rưỡi quan tiền bán sách bất ngờ có được, Sagan đã tới hỏi cha mình xem phải làm gì với kho báu đó.

Cha bà đã nói luôn, phải tiêu ngay thôi con ạ, vì đối với con, càng lắm tiền, càng lắm tai họa. Sagan đã ngay lập tức tìm đủ mọi trò để đốt tiền: những cuộc du hí "nghìn vàng đổi lấy trận cười như không", rồi các thú vui nghiện ngập và rất cám dỗ... Sagan cảm thấy mình như một cánh chim tự do, không bị ai ràng buộc và cũng không muốn ràng buộc ai.

Điều duy nhất đã cứu Sagan khỏi một kết cục đen tối ngay từ trẻ, đó là văn học. Trời phú cho bà một tài năng không tầm thường và một niềm tin bất di bất dịch vào sứ mệnh sáng tạo của mình. Và ngòi bút đã tỏa ra ánh sáng dẫn dắt Sagan vượt qua các cạm bẫy của giới thượng lưu Paris.

Bể tình khôn thỏa

Muốn nói gì thì nói, chia tay với Schoeller rồi nhưng trong trái tim Sagan (khi ấy mới ngoài 20 tuổi một chút) vẫn không lịm tắt một ước mơ về tình yêu đích thực, dù bên ngoài nữ văn sĩ luôn tỏ ra kiêu hãnh bất cần đời.

Những mối quan hệ thoáng qua không thể làm nguôi cơn khát hạnh phúc. Tuy nhiên, trong đời mình, Sagan chỉ thêm một lần nữa bị ảo ảnh hôn nhân cuốn hút.

Đầu những năm 60 của thế kỷ trước, trong một tiệc vui, nữ văn sĩ bất ngờ gặp Bob Westhof, một họa sĩ làm gốm người Mỹ. Westhof khi đó sang chơi cùng một đồng nghiệp, vốn là bạn cũ của Sagan.

Denis Westhof, người con trai duy nhất của họ, kể: "Cha tôi là một người đàn ông rất ấn tượng, tóc thẫm màu, vai rộng, cao to, mắt xanh, ông hẳn trông rất nổi bật giữa đám đông thượng lưu Paris toàn những người thấp nhỏ, râu ria không cạo, trông nhầu nhĩ và luôn luôn ngà ngà say.

Mẹ tôi nói rằng, trông ông đã giống như những tay chăn bò trong ảnh quảng cáo thuốc lá Marlboro, có thiếu thì chỉ thiếu cái mũ cao bồi thôi. Bố tôi đã đi cùng ông bạn người Pháp tới mọi tiệc vui của giới thượng lưu và ở đâu thì anh chàng họa sĩ kì lạ đều được đặc biệt chú ý.

Trong một bữa tiệc như thế, Westhof bỗng để ý thấy một phụ nữ trẻ, tóc thẫm màu (mẹ tôi lúc đó còn chưa nhuộm tóc màu vàng) mà người ta giới thiệu với ông rằng đó là Francoise Sagan, nữ văn sĩ trẻ thời thượng nhất lúc đó.

Hai người lập tức mê nhau như bị sét đánh. Nhưng... làm thế nào để duy trì mối quan hệ đây? Bởi vì mẹ tôi thì không nói tiếng Anh, còn cha tôi lại chẳng biết một câu tiếng Pháp nào. Về sau mới rõ là, không trò chuyện bằng ngôn ngữ cũng không sao, một khi đã nảy nở tình yêu!

Không lâu sau đó, ông bạn chung cùng cô bạn gái đã mời mẹ tôi và bố tôi tới trang trại ngoại ô chơi. Vì cặp đó liên tục cãi nhau nên mẹ tôi và bố tôi đành phải lặng lẽ rời khỏi trang trại đi dạo ở các con đường cảnh rất đẹp quanh đó...

Thực sự là chính tôi cũng không hiểu là họ đã trò chuyện cùng nhau như thế nào. Năm 1961, mẹ tôi có mang tôi và ngày 10/1/1962, hai người đã làm lễ thành hôn. Trong tiệc cưới, khách khứa đã cảm thấy hơi lạ lẫm với cái bụng đã lùm lùm của cô dâu.

Chẳng bao lâu sau, tôi đã cất tiếng khóc chào đời... Cha tôi chuyển về ở cùng mẹ tôi trong một căn hộ sang trọng mới tậu ở trung tâm Paris...".

Bob Westhof cũng mang trong mình dòng máu nghệ sĩ đậm đặc nên vì duyên mới nên đã quên bẵng cả đường về nước Mỹ. Khi cha mẹ ông mất rất nhiều công sức mới tìm ra con trai mình ở Paris, gọi điện thoại giục trở về nhà, Bob đã đáp: "Không, ở Paris con đã tìm được người vợ lý tưởng của mình rồi, con sẽ ở lại đây vĩnh viễn...".

Tuy nhiên, không có gì trên đời này là vĩnh viễn cả. Trái tim từng bị ngộ độc bởi cuộc hôn nhân thứ nhất sẽ rất khó nuôi dưỡng lâu bền cuộc hôn nhân thứ hai. Khi con trai chung của họ mới chỉ vài tháng tuổi, Bob Westhof và Francoise Sagan đã ký giấy li dị nhau.

Bob ở lại trong ngôi nhà Paris thêm sáu năm nữa rồi mới quay về Mỹ. Họ không còn là vợ chồng nữa nhưng không phải vì thế mà tuyệt tình bằng hữu. Điều này phần nào giúp cho đứa con trai chung duy nhất của họ bớt bị tổn thương tâm lý.

Hiện nay, Denis Westhof sống ở Paris, là một nhiếp ảnh gia thành đạt chuyên chụp cho các tạp chí đắt tiền. Anh luôn hồi tưởng lại cha mẹ mình với một tình cảm bao dung và thấu hiểu. Anh hiểu rằng, mẹ anh không sinh ra để thực hiện chức phận phụ nữ thông thường mà bà đã là một nhân cách sáng tạo với những rạng rỡ và tăm tối của nghiệp chướng này.

Bà đã hiến cho đời những tác phẩm văn học bất hủ và đã can đảm vác trên đôi vai mảnh khảnh nữ nhi cây thánh giá của những biến thái tâm lý mà một người sáng tạo nào cũng không thể tránh khỏi.

Người bạn Tổng thống

Sinh thời, cố Tổng thống Pháp Francois Mitterand rất quý mến Sagan. Hai người lần đầu tiên làm quen với nhau trên máy bay. Họ trò chuyện với nhau chỉ mấy câu thôi là đã cảm thấy rất tâm đầu ý hợp. Tình bạn của họ chân thành và giản dị.

Ông Mitterand không hề cảm thấy bối rối khi ngồi với nữ văn sĩ mà tên họ lúc nào cũng bị dính dáng tới những chuyện tai tiếng đời thường ầm ĩ. Còn Sagan lại luôn cảm thấy ấn tượng với việc ông Mitterand là vị nguyên thủ quốc gia duy nhất ở Pháp không bao giờ đòi hỏi phải dọn đường riêng cho mình đi - đã không chỉ một lần ông chấp nhận bị tắc đường như mọi công dân Pháp khác.

Denis Westhof kể: "Mitterand là một người rất thông tuệ, một bạn trò chuyện tuyệt vời. Ông ấy thường xuyên đến nhà chơi với mẹ tôi. Mỗi lần, đến đúng giờ hẹn, mẹ tôi lại nhìn ra cửa sổ, đón chiếc xe hơi màu đen mà những vệ sĩ cung kính chạy tới mở cửa và đưa quý ông mặc áo bành tô đen tới tận lối lên nhà tôi.

Có một bận họ ngồi trò chuyện trong gian bếp, bỗng nhiên ông Mitterand thận trọng ngỏ ý rằng nếu có gì đó ấm bụng thì cũng không hề tồi chút nào. Cũng cần phải nói rằng, mẹ tôi rất dửng dưng với đồ ăn thức uống, bà không có món ăn nào gọi là ưa thích cả, có sẵn cái gì thì bà ăn cái nấy, như thể đó chỉ là năng lượng cần nạp để duy trì cho bộ máy sự sống chạy.

Mặc dầu vậy nhưng bà đầu bếp cũng cố gắng trữ trong tủ lạnh đủ thực phẩm để nếu cần thì mẹ tôi có thể có được đồ ăn ngon miệng. Thấy Tổng thống nói muốn ăn, mẹ tôi lục trong tủ lạnh một lúc rồi lôi ra cái cặp lồng trong đó còn ít súp thừa mà tôi để lại sau khi ăn lúc đi học về.

Trước con mắt kinh ngạc của Tổng thống, mẹ tôi điềm nhiên đưa cặp lồng vào dưới vòi nước máy để chế thêm nước vào. "Để đủ cho hai người ăn" - mẹ tôi phân bua. Rồi mẹ tôi đã hâm cặp lồng súp đó rất lâu và rất vụng, đến mức không thể nào ăn được nó, đành phải gọi điện thoại tới nhà hàng đặt món...".

Sagan là vậy trong nội trợ nhưng không vì thế mà Tổng thống Mitterand bớt thương quý nữ văn sĩ. Nhưng quý quá đôi khi cũng có hại. Mùa thu năm 1985, ông đề nghị Sagan tháp tùng ông sang Columbia trong một chuyến thăm chính thức của Tổng thống Pháp.

Nữ văn sĩ được dành cho một căn phòng sang trọng ở trung tâm thủ đô Bogotha, trên độ cao 2.600m. Đối với một phụ nữ nghiện thuốc lá lâu năm như Sagan, điều này không mấy hay ho. Chỉ sau vài giờ ở đó, Sagan đã bị bất tỉnh nhân sự.

Tất nhiên, bộ máy y tế siêu hạng đã giúp bà hồi tỉnh lại nhưng hệ lụy tai hại vẫn còn, khiến bà về sau không bao giờ có được phong độ sức khỏe như cũ nữa... Những năm cuối đời, Sagan không chỉ phải đối mặt với những rắc rối tài chính và pháp lý mà còn phải chiến đấu lại nhiều căn bệnh luôn hành hạ bà.

19h45’ ngày 24/9/2004, sau 19 ngày nằm hôn mê trong bệnh viện, Sagan đã trút hơi thở cuối cùng, để lại dang dở tập tiểu thuyết mà bà định viết về chính cuộc đời mình. Không hiểu phút lâm chung bà có nhớ lại câu than thở cũ của mình không: "Hạnh phúc thực ngắn ngủi và giả tạo. Chỉ có nỗi buồn mới vĩnh cửu..."?

Huyền Anh
.
.