Nhìn đời đâu bằng một mắt

Thứ Sáu, 16/01/2009, 15:30
Hơn 40 năm liên tục là "lính chiến" trong ngành GTVT, đảm nhận nhiều cương vị lãnh đạo khác nhau trên nhiều lĩnh vực công tác, từ giao thông đến vận tải, từ đường sắt đến đường biển, từ hậu phương ra tiền tuyến, từ Bắc vào Nam… ông Nguyễn Tường Lân được anh em công nhân "ăn sóng nói gió" quý mến, gọi vui là "ông trùm", không phải chỉ là một "ông trùm" mà tới bốn "ông trùm"...

Tôi biết tên ông từ hơn 40 năm nay, khi ông là Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) kiêm Trưởng ban B.67, phụ trách đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến đường Trường Sơn, phía Tây Quảng Bình, trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Nhưng mãi đến cuối tháng 11/2008 tôi mới có dịp được gặp ông, khi ông phải vào Bệnh viện Hữu nghị mổ mắt, còn tôi bị cái cột sống hành hạ cũng phải vào nằm tại đây. Ông là Nguyễn Tường Lân, nguyên Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa IV (1976-1981), Thứ trưởng Thường trực Bộ GTVT, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh 559, Tổng cục trưởng Tổng cục GTVT Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Đường biển Việt Nam..

Hai câu thơ thi sỹ Vũ Hoàng Chương tặng ông Phó Chủ tịch huyện

Ông Nguyễn Tường Lân sinh năm 1921, quê ở xã Động Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Biết tôi là nhà báo, ông "khoe", trước Cách mạng Tháng 8/1945 ông từng là ký giả, đồng nghiệp với tôi. Năm 1940 học xong Tú tài phần I ở Hà Nội, không có điều kiện học tiếp nhưng ghét "Tây", không muốn đi làm "ông thông, ông phán" cho chúng như một số bạn bè khác, ông ở nhà dạy học, chuyên dạy tiếng Pháp cho con em một số gia đình Hoa kiều, Ấn kiều ở Hà Nội. Sau đó, nhờ có ông chú ruột quen với ông Mai Văn Hàm, chủ bút báo Tin Mới giới thiệu, ông trở thành ký giả của tờ báo này, rồi xin lên Cao Bằng vừa làm báo vừa dạy học.

Một lần, được tin lính Pháp "mua" 20.000 cây tre của bà con dân tộc huyện Hòa An để làm doanh trại nhưng lại không trả tiền, với tư cách ký giả, ông xin phỏng vấn viên Quan 5 Pháp, Chánh sứ Cao Bằng, về chuyện này. Nghe nói có ký giả xin gặp, viên Quan 5 vui vẻ nhận lời. Nhưng khi gặp, thấy ông hỏi chuyện lính Pháp mua tre của dân không trả tiền, hắn đuổi thẳng. Chẳng những thế, hắn còn gọi điện thoại ngay cho viên trùm mật thám Cao Bằng trục xuất ông khỏi tỉnh và nói với cả ông chủ báo để sa thải ông Lân!

Năm 1942, ông Nguyễn Tường Lân theo lời khuyên của ông chú họ là Nguyễn Danh Đới, Xứ ủy viên Bắc Kỳ của Đảng, về quê dạy chữ cho trẻ em trong họ, trong làng và bắt đầu tham gia các hoạt động. Ông vào Đoàn thanh niên cứu quốc từ năm 1944 và khi Cách mạng Tháng 8/1945 nổ ra, ông tham gia lãnh đạo cướp chính quyền ngay tại quê hương. Năm 1946, mới 25 tuổi ông đã được cử giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Kiến Xương. Cuối năm ấy, tại Kiến Xương diễn ra cuộc họp mặt của một số văn nghệ sĩ rời Hà Nội ra Khu III tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông Phạm Kim Tôn, Chủ tịch huyện giao cho ông, vị lãnh đạo trẻ lại "có học", đón tiếp số văn nghệ sỹ này. Lần ấy, thi sỹ Vũ Hoàng Chương tới dự cuộc họp mặt có bà vợ đi cùng, xách theo cả một chiếc bàn đèn thuốc phiện. Ông Tôn nhắc ông Lân tìm mua thuốc để "chiêu đãi" thi sỹ.

Tối hôm ấy, sau bữa cơm và một "cữ" thuốc phiện do ông Lân mời, cảm hứng trước thái độ ân cần và trọng thị của ông Phó Chủ tịch huyện trẻ tuổi chưa từng quen biết đối với mình và với các nhà văn, nhà thơ, thi sỹ Vũ Hoàng Chương viết luôn hai câu thơ tặng ông Nguyễn Tường Lân, gửi cả tâm trạng của mình trong đó:

"Lạ mà quen đấy, ơn ngòi bút
Thăng với trầm ư, mặc cánh diều".

Năm 1947, ông Nguyễn Tường Lân được cử sang Nam Định, giữ chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Hải Hậu và một năm sau được điều động lên chiến khu Việt Bắc, bắt đầu thời kỳ gắn bó cả cuộc đời với ngành GTVT cho tới ngày về hưu.

Bốn "ông trùm" trong một ông Thứ trưởng

Có thể nói, cuộc đời của ông Nguyễn Tường Lân thật sôi động và phong phú. Từ Chủ tịch huyện, lên chiến khu Việt Bắc ông được cử đi học tại Học viện Giao thông Đường Sơn, Trung Quốc. Đầu năm 1954 về nước, là kỹ sư tập sự nhưng ông đã được giao phụ trách kỹ thuật xây dựng cầu Khánh Khê, chiếc cầu quan trọng trên con đường 1B mới mở để kéo pháo từ Trung Quốc về Việt Nam tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, ông được điều về công tác tại Tổng cục Đường sắt rồi được cử làm Đội trưởng Đội cầu Phủ Lạng Thương, khôi phục chiếc cầu bị phá hủy nặng nhất trên tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan (Lạng Sơn). Ông là một trong những Đội trưởng đầu tiên của đội ngũ công nhân làm cầu đường sắt ở Việt Nam, có mặt trên các công trình xây dựng cầu đường sắt Phủ Lý (Hà Nam), Ninh Bình, Đò Lèn (Thanh Hóa), Làng Giàng (Lào Cai)…

Năm 1963, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ GTVT, giúp việc Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ, phụ trách lĩnh vực khoa học kỹ thuật và xây dựng công trình của Bộ. Khi cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay và tàu chiến của Mỹ nổ ra trên miền Bắc, từ năm 1965 ông liên tục có mặt tại tuyến lửa Khu IV, tham gia chỉ huy công tác bảo đảm giao thông vận tải trên các tuyến đường huyết mạch chi viện cho chiến trường miền Nam. Ông đã từng được biệt phái sang làm Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Đường dây 559, trực tiếp chỉ huy việc mở đường 20 từ Tây Quảng Bình vào A Sầu, A Lưới, Tây Thừa Thiên, đảm bảo giao thông vận tải chi viện chiến trường cả trong mùa mưa.

Khi khởi công xây dựng cầu Thăng Long, ông Nguyễn Tường Lân được điều về làm Thứ trưởng kiêm Tổng Giám đốc công trình xây dựng chiếc cầu lớn nhất Hà Nội vào thời kỳ đó. Năm 1972, khi chuẩn bị mở chiến dịch Quảng Trị, ông lại được điều động trở lại Khu IV, làm Phó Tư lệnh Bộ chỉ huy chi viện tiền tuyến, trực tiếp chỉ huy việc bảo đảm giao thông vận tải phục vụ bộ đội đưa pháo 130 ly cùng khí tài và đạn dược vào Vĩnh Linh để bắn phá các cứ điểm Cồn Tiên, Dốc Miếu của quân đội Sài Gòn.

Năm 1975, sau chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi, ông Nguyễn Tường Lân được cử vào miền Nam, trực tiếp làm Tổng cục trưởng GTVT của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, lãnh đạo công việc tiếp quản, khôi phục và quản lý các hoạt động của ngành GTVT phía Nam. Năm 1976 ông được cử kiêm Phó ban Chỉ đạo khôi phục tuyến đường sắt Thống nhất, trực tiếp chỉ huy việc khôi phục tuyến đường sắt từ TP Hồ Chí Minh ra Đà Nẵng. Cũng trong năm này, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, ông Nguyễn Tường Lân được bầu làm Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ GTVT, sau đó là Thứ trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Đường biển, bắt tay xây dựng ngành Vận tải biển thành một ngành kinh tế quan trọng của cả nước, trực thuộc Chính phủ.

Năm 1980, cảng Hải Phòng được quân sự hóa, mọi công việc chỉ huy, bốc xếp hàng hóa tại cảng đều giao quân đội đảm nhận. Sau một thời gian, nhận thấy mô hình này hoạt động không hiệu quả, cảng Hải Phòng trở lại mô hình hoạt động của một thương cảng. Ông Nguyễn Tường Lân lại được cử về kiêm chức Bí thư Đảng ủy, Giám đốc cảng Hải Phòng, trực tiếp lãnh đạo việc khôi phục hoạt động của cảng đúng với nghĩa là một thương cảng.

Năm 1981, ông Nguyễn Tường Lân lại nhận nhiệm vụ mới, làm Trưởng đoàn chuyên gia Giao thông - Bưu điện của Việt Nam sang giúp nước bạn Campuchia. Sau gần ba năm ở Campuchia, trở về nước ông tiếp tục đảm nhận công việc của một Thứ trưởng Bộ GTVT, phụ trách phía Nam cho tới năm 1989 thì nghỉ hưu.     

Hơn 40 năm liên tục là "lính chiến" trong ngành GTVT, đảm nhận nhiều cương vị lãnh đạo khác nhau trên nhiều lĩnh vực công tác, từ giao thông đến vận tải, từ đường sắt đến đường biển, từ hậu phương ra tiền tuyến, từ Bắc vào Nam… ông Nguyễn Tường Lân được anh em công nhân "ăn sóng nói gió" quý mến, gọi vui là "ông trùm", không phải chỉ là một "ông trùm" mà tới bốn "ông trùm". Ông rất vui vì trong mắt anh em công nhân, ông là "trùm cờ-lê búa" (vận tải), "trùm lục lộ" (cầu đường), "trùm pooc-tơ (porteur-bốc xếp) và "trùm mac-lô" (matelot - thủy thủ đường biển) - "bốn ông trùm trong một ông Thứ trưởng"!

Nhìn đời đâu bằng một mắt

Nếu không trực tiếp gặp và được nghe ông kể, tôi khó có thể hình dung ra cuộc đời phong phú với không ít chiến công của một thời lừng lẫy ở một vị nguyên Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ GTVT, về già lại có không ít thăng trầm và cô đơn, như cánh diều "thăng với trầm" trước gió trong câu thơ của thi sỹ Vũ Hoàng Chương tặng ông 62 năm trước. Được giao nhiều trọng trách như thế, ngang dọc Bắc Nam như thế, nhưng nhiều năm trước cũng đã có những ngày tháng ông ăn không ngon, ngủ không yên vì bị quy trách nhiệm "oan" trong một số công việc, từng suýt bị cách chức.

Không ít ý kiến đề xuất tâm huyết, xác đáng của ông lúc còn đương chức và cả sau này khi đã về hưu, như cơ cấu, tổ chức lại ngành GTVT hay xây dựng hẳn một đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng tránh xa các khu dân cư thay cho việc mở rộng đường 5 như hiện nay… đã không được chấp thuận, đến nay vẫn còn là nỗi buồn, canh cánh trong lòng ông.

Cuộc sống riêng tư của ông cũng không mấy trọn vẹn. Vợ chồng sống với nhau 52 năm thì nhiều năm ông đi công tác xa, vào chiến trường, sang nước bạn, đến khi được ở gần thì hai vợ chồng lại không sinh được một mụn con nào. Những năm ông ở Trường Sơn, ở nhà bà xin một đứa trẻ bị bỏ rơi trong bệnh viện về làm con nuôi. Nhưng thật đáng buồn, người con nuôi này, nay đã gần 40 tuổi nhưng lại nghiện ngập, "phá gia chi tử", nay vào trại mai ra trại, không mấy khi đem lại cho ông bà niềm vui. Về hưu rồi mà mấy năm trước mỗi tháng ông bà còn phải gửi 2,4 triệu tiền lương hưu của mình vào trại cai nghiện tự nguyện nuôi con! Nghĩ đến con, ông bà lại não lòng…

Nặng lòng với quê hương, năm 1995, tuy đã 74 tuổi, ông bà bán nhà ở TP Hồ Chí Minh về quê sinh sống. Ông bà xin thuê đất còn hoang hóa ven con sông đào Kiên Giang để làm trang trại, với mong muốn xây dựng mô hình làm giàu cho quê hương và tạo công ăn việc làm tại chỗ cho bà con nông dân. Tiền bán nhà và tiền dành dụm, tích góp mấy chục năm, khi về quê, một phần ông bà bỏ ra đóng góp cùng địa phương làm đường, làm chợ, giúp đỡ bà con nghèo, phần lớn hơn đầu tư vào làm trang trại và mua máy cày về để góp phần "công nghiệp hóa nông thôn" ngay tại quê nhà. Nhưng rồi tám năm vất vả với trang trại, với ý tưởng "công nghiệp hoá nông thôn" ngay tại quê nhà, ông đã không thành công.

Năm 2003, bị ngã, lệch đĩa đệm, ông phải vào bệnh viện mổ cột sống, trang trại đành phải để lại cho người cháu họ làm tiếp, ba chiếc máy cày cũng thành "mây khói" bởi chính người con nuôi! Tháng 5/2008 vợ mất, con nuôi trong trại, ông thành người cô đơn, lại về ở với vợ chồng người em ruột ở gần chùa Láng. Người em ruột của ông cũng chẳng khỏe khoắn gì cho cam, bị tai nạn giao thông, xuất huyết não, gần chục năm nay nhớ nhớ quên quên!

Bây giờ, trước mắt tôi, ông Nguyễn Tường Lân là một ông già, đúng hơn là một cụ già, gần 90 tuổi, một mắt mới mổ băng trắng, mắt kia thị lực chỉ còn 2/10, tay chống gậy, đi lại chậm chạp, khó khăn. Nhưng ông vẫn còn rất minh mẫn, rất lạc quan. Ông cười vui kể với tôi, đến bây giờ vẫn có người nhầm, tưởng ông là họa sỹ Nguyễn Tường Lân, một trong bốn danh họa của Việt Nam trước 1945, nên nghe tin ông vào viện vẫn tìm đến thăm ông. Ông bảo, thú vui nhất của ông còn lại là được xem bóng đá. Có đêm ông thức xem liền hai trận bóng đá quốc tế trên truyền hình, huyết áp lên tới 200, khiến bà em dâu phát hoảng!

- Này, mổ mắt rồi mà tối qua tôi vẫn còn xem bóng đá trên chiếc tivi trong bệnh viện!

Ông cười khà khà, hở cả hàm răng rụng không răng giả nói với tôi. Ông dí dỏm:

- Xem bóng đá một mắt nhưng nhìn đời vẫn bằng hai mắt đấy nhé!

Ông đọc lại hai câu thơ thi sỹ Vũ Hoàng Chương tặng ông năm nào mà ông bảo như vận vào cuộc đời ông, mặc thăng trầm như cánh diều trước gió. Còn tôi, tôi hiểu trong câu nói và tiếng cười sảng khoái của ông không chỉ có sự lạc quan mà còn chứa đựng cả niềm cô đơn và lòng mong mỏi cuộc sống đổi thay của một con người từng sống hết mình cho cuộc đời này. Mong sao cánh diều ấy còn bay

.
.