Nhà văn Colombia, Gabriel Garcia Marquez: Sống như không để chết

Thứ Sáu, 16/05/2014, 16:28

Nhà văn Colombia nổi tiếng thế giới, giải Nobel Văn học năm 1982, Gabriel Garcia Marquez, đã qua đời ngày 17/4 vừa qua, thọ 87 tuổi. Trong nhiều năm qua, ông đã ngoan cường chống chọi lại căn bệnh máu trắng và những hậu quả từ chứng ung thư phổi trước kia. Và không ngừng sáng tạo. Năm 2009, trong một lần trò chuyện với báo El Tiempo, Marquez đã tâm sự: “Việc tôi đã ngừng viết không chỉ đơn thuần là sự dối trá. Sự thật là tôi vẫn đang viết và đó là tất cả những gì mà tôi vẫn làm...”.

Marquez rất nhẫn nại và kiên định không chỉ trong tìm kiếm sự nghiệp cuộc đời mà cả trong những lựa chọn bạn bầu, thái độ đối với chính trị và cả trong cuộc chiến đấu vì sức khỏe của cá nhân mình. Ngay từ thời còn học khoa luật ở Trường Đại học Tổng hợp quốc gia ở Bogota (thủ đô Colombia), Marquez đã quyết định sẽ trở thành nhà báo chuyên nghiệp.

Theo lời nhà văn kể, ông bước vào làng báo một cách rất đường đột. Tờ báo đầu tiên mà ông tìm tới là Universal ở Cartajena, một thành phố nhỏ của Colombia. Trước đó, chàng trai chỉ mới thử bút trong việc viết những truyện hoang tưởng,cổ tích... Vừa lọt vào phòng tổng biên tập Universal, Gabo (tên gọi thân mật của Marquez) đã tuyên bố ngay: “Tôi  muốn trở thành nhà báo”. Ông tổng biên tập hỏi: “Thế anh đã viết những gì rồi?”- “Truyện cổ tích!”- Gabo tự tin đáp. Ông tổng biên tập đưa chàng trai vào ngồi vào bên máy chữ và bảo đánh một cái tin nào đó. Kết quả không mấy xuất sắc nhưng có lẽ phong cách của Marquez đã làm cho ông tổng biên tập thích nên ông  ấy đã viết lại tất cả và đưa đăng lên báo. Con mắt xanh của nhà báo đàn anh đã không lầm và về sau, càng ngày ông tổng biên tập càng ít phải sửa các sản phẩm báo chí của Marquez  hơn...

Đầu những năm 50 của thế kỷ trước, Marquez được biết đến nhiều hơn nhờ bài phóng sự tương đối tai tiếng đăng trên tờ El Espectador, xuất bản ở Bogota. Ông kể chuyện về một thủy thủ đã thoát chết từ con tàu bị đắm ngoài khơi. Trước đó, chính phủ Colombia đã “nâng quan điểm” đưa thủy thủ này như tấm gương sáng của người anh hùng. Thế mà Marquez đã giải thiêng huyền thoại và bóc trần việc con tàu có chàng thủy thủ trên đã chở toàn hàng lậu và đã bị đắm khi gặp bão lớn chỉ vì quá tải. Phóng sự của nhà báo trẻ đã làm nhà độc tài đang trị vì ở Colombia lúc ấy là Rojas Pinillà nổi trận lôi đình và Marquez buộc phải “tránh voi chẳng xấu mặt nào” sang châu Âu kiếm kế sinh nhai mấy năm liền vì không thể nào tìm ra việc đủ sống ở quê hương.

Vì không thể làm công việc báo chí ưa thích nên chàng phóng viên trẻ giải sầu bằng cách viết chơi rồi cất đi, không chỉ là những bài báo mà cả những câu chuyện hư cấu. Và năm 1955, Marquez đã công bố tiểu thuyết đầu tiên,  và như sau này ông tâm sự trong nhật ký, cũng là tác phẩm yêu thích nhất: Bão lá.

Nghề báo ngày một lôi cuốn Marquez, ngay cả khi ông đã trở thành một nhà văn lừng danh thế giới. Với ông, “báo chí cũng là một thể loại văn học hoàn toàn tự lập, bên cạnh tiểu thuyết và thơ...”. Ông từng tâm sự: “Nghề làm báo trợ lực cho nhà văn không chỉ vì nó buộc ta phải viết ngay lập tức và tạo mối liên hệ thường xuyên với ngôn từ sống động, mà chủ yếu còn vì nó cho phép thường xuyên tiếp xúc với thực tế. Lao động văn học  mà thiếu tiếp xúc với thực tế  sẽ đẩy nhà văn lên chín tầng mây, nhốt nhà văn vào trong tháp ngà. Tôi thực hành cái mà tôi gọi là nghề báo lý tưởng, nói cách khác, tôi viết khi nào tôi muốn, tôi chọn chủ đề và hình thức thể hiện nào  mà tôi cho là cần, mặc họ có in hay không...”.

Thói quen nghề nghiệp của một nhà báo đã góp phần tạo nên phong cách nhà văn của Marquez. Chính vì thế nên khi viết văn, Marquez luôn tâm niệm: “Không bao giờ đưa vào sách các sự kiện mà ta chưa hoàn toàn tin tưởng. Nếu ta lầm lẫn, thể nào ở đâu đấy cũng có một độc giả nào đó bắt lỗi được ta”. Ông cũng nói: “Nền tảng căn bản trong mọi cuốn sách của tôi là hiện thực, không một cuốn sách nào của tôi lại không bắt nguồn sâu sắc từ hiện thực... Tôi luôn lần lượt hành nghề văn và báo chí và tôi luôn quan tâm tới sự khác nhau giữa hai nghề này. Cả báo chí lẫn văn học -tôi muốn nói trước hết là tiểu thuyết- đều được nuôi dưỡng từ một nguồn sống. Cách biểu hiện thì khác nhau, nhưng mục tiêu thì chỉ là một: truyền tải, kể lại, thuyết phục. Và vì tôi luôn làm hai nghề này cùng một lúc nên tôi mơ ước cho chúng hòa nhập vào nhau. Đôi khi có cảm giác như tôi đã làm được việc đó”.

Có lẽ chính vì quan niệm về nghề  như thế nên bên cạnh những thành tựu văn chương, Marquez còn là tác giả của nhiều tác phẩm báo chí xuất sắc. Cuốn phóng sự của ông, Thông báo về một vụ bắt cóc đã trở thành sách best-seller ở châu Mỹ Latinh và nhiều khu vực khác. Tại Argentina trong vòng 10 ngày đầu phát hành đã bán hết 100 nghìn bản sách). Tại Colombia, nó làm chấn động xã hội bởi những thông tin xác thực và chi tiết mang tính bóc trần tội ác một cách mạnh mẽ. Thông báo về một vụ bắt cóc cũng đã được dịch ra tiếng Việt.

Để viết thành công Thông báo về một vụ bắt cóc, Marquez đã phải tiến hành khâu chuẩn bị tư liệu rất kỹ càng và tinh tế. Tuổi cao nhưng ông cũng chịu khó đi sâu vào thực tế chẳng kém gì các phóng viên trẻ. Ông đã  nghiên cứu hàng nghìn tin bài đang trên các báo, đích thân đi phỏng vấn hơn 50 nhân vật liên quan đến một trong những chủ đề “cháy nhà chết người” bậc nhất ở Colombia: ma túy và bắt cóc.

Trước đây, Marquez từng làm thông tín viên cho một số tờ báo ở Pháp và từng cộng tác với Hãng tin Prensa Latina của Cuba (ông là người bạn thân thiết của Chủ tịch Fidel Castro). Một thời gian không ngắn, trên cương vị tổng biên tập tờ Cambio, Marquez đã thường xuyên gây tiếng vang lớn trong xã hội Colombia bằng các bài ghi chép, phóng sự nóng hổi về mọi mặt đời sống. Mặc dù độ tuổi trung bình của các phóng viên trong toà soạn Cambio là 25 nhưng vị trưởng lão “cổ lai hy” Marquez vẫn không chịu thua kém ai về sức bền dai và tính sáng tạo trong công việc. Dưới bàn tay chèo lái của ông, lượng phát hành của Cambio trong thời gian ngắn đã tăng từ 14 nghìn bản lên tới 50 nghìn bản. Đây là con số cũng vào hàng kỷ lục ở Colombia...

Tuy nhiên, sự nghiệp lớn nhất của Marquez phải là văn học. Ông đã viết được hàng loạt tác phẩm xuất sắc mà trong đó, nổi bật hơn cả là tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, một trong những cuốn sách được đọc nhiều nhất trên thế giới. Bản thân Maruez đã có lần lại nói rằng, chính ông thì mãi vẫn không thể hiểu được đâu là lý do để câu chuyện kể về gia tộc Buendia lại có được một thành công vang dội đến thế... Theo lời ông, cốt truyện của tiểu thuyết này đã xuất hiện trong đầu ông từ rất nhiều năm trước khi được kể lại trên giấy nên ông cảm thấy nó thân quen thường nhật với mình tới mức khó có thể coi đấy như một sự khải huyền bất ngờ nào đó: “Tôi thường đã biết rõ câu cuối cùng trong tác phẩm mới của mình sẽ là thế nào trước khi ngồi vào bàn viết tác phẩm đó...”. Nhà thơ Chilê lừng danh Pablo Neruda đã gọi Trăm năm cô đơn là “phát kiến vĩ đại nhất bằng tiếng Tây Ban Nha kể từ thời Don Kihote của Servantes”, còn nhà văn Mỹ William Kennedy đã đánh giá đó là tác phẩm đầu tiên sau Kinh Thánh mà toàn bộ nhân loại cần phải đọc. Từ khi Trăm năm cô đơn được xuất bản lần đầu năm 1967 tới nay trên khắp thế giới đã bán được hơn 30 triệu bản sách và nó cũng đã được dịch ra gần 40 thứ tiếng.

Tiểu thuyết này đã được hoàn thành trong giai đoạn mà Marquez đang gặp rất nhiều khó khăn về tài chính. Thậm chí ông còn không có đủ tiền để gửi bản thảo qua bưu điện đến cho nhà xuất bản. Marquez kể: “Để toàn tâm toàn ý viết, tôi phải bỏ việc. Tôi mang xe hơi đi cầm và đưa tiền lại cho vợ mình. Ngày nào vợ tôi cũng bằng cách này hay cách khác phải đi kiếm đủ giấy cho tôi viết. Khi tôi viết xong tiểu thuyết, thì hóa ra là gia đình tôi đang mắc nợ của ông hàng thịt 5.000 peso, đó là một khoản tiền khổng lồ. Cả khu vực tôi ở đều lan truyền tin đồn rằng tôi đang viết một cuốn sách rất quan trọng và tất cả những người bán hàng đều muốn can dự vào việc này. Để gửi bản thảo tới nhà xuất bản khi đó phải cần có 160 peso mà tôi thì lại chỉ còn 80 peso. Thế là tôi lại phải mang đi cầm cái ấm đun nước và máy sấy tóc của vợ...”.

Danh ngôn của Marquez

- Tôi yêu em không phải vì em là ai mà vì tôi trở thành ai khi ở bên em.

- Không một ai đáng để ta phải khóc, vì người xứng đáng để ta phải khóc thì không bao giờ bắt ta phải khóc.

- Nếu chỉ vì ai đó không yêu bạn như bạn muốn thì không có nghĩa là người ấy không yêu bạn bằng tất cả tâm hồn.

- Người bạn chân chính, đó là người sẽ cầm lấy tay bạn và cảm nhận được trái tim của bạn.

- Cách tồi tệ nhất để buồn nhớ một người, đó là khi ở cạnh người ấy và hiểu rằng, người ấy sẽ không bao giờ là của ta.

- Đừng bao giờ ngừng mỉm cười, ngay cả khi ta buồn: Biết đâu có ai đó lại thích nụ cười của ta.

- Có thể trong thế giới này ta chỉ là một người, nhưng đối với ai đó ta là cả thế giới.

- Đừng tốn thời gian với người không muốn tốn thời gian cho ta.

- Đừng khóc vì việc đó đã kết thúc. Hãy mỉm cười vì đã từng có việc đó.

Huyền Anh
.
.