Người mang bí số TQ2

Thứ Ba, 01/02/2011, 13:30
Cho đến bây giờ, sau ba mươi lăm năm kết thúc chiến tranh, tôi mới biết rõ quê hương bản quán và họ tên thật của ông, một cán bộ điệp báo thuộc Cục Nghiên cứu Bộ Tổng tham mưu (nay là Tổng cục II, Bộ Quốc phòng) từ 43 năm trước (1967) được cấp trên cử vào chiến trường miền Nam, đi công khai bằng đường hàng không tới Campuchia, rồi từ đó bay sang Sài Gòn (sào huyệt của ngụy quyền miền Nam) để thực hiện một nhiệm vụ quan trọng - hỗ trợ một yêu cầu nghiệp vụ của Cụm tình báo chiến lược B48.

Vị phái viên và mục tiêu tiếp cận

Thời đó tôi làm công tác cơ yếu (ghép 2 cụm từ cơ mật và trọng yếu), kiêm luôn nhiệm vụ tổng hợp tin tức từ các cơ sở bí mật nội thành. Vì vậy, mọi thông tin về đơn vị đều được biết sớm. Nếu là tài liệu từ cấp trên gửi về qua VTĐ (vô tuyến điện), cơ yếu tiếp nhận trước, dịch nội dung rồi báo cáo lãnh đạo cụm; nếu là báo cáo của các cơ sở bí mật nội thành thì là người thứ hai được tiếp cận - lãnh đạo cụm xem xong, chuyển bộ phận cơ yếu nghiên cứu, mã hóa rồi điện về trung tâm.

Cuối năm 1967, đơn vị nhận được điện khẩn từ Hà Nội gửi vào với nội dung vắn tắt: "Cử người đón "TQ2". Thời gian, mật khẩu và địa điểm như đã thống nhất. Nhiệm vụ quan trọng số 1 của các đồng chí trong năm 1967 là dứt điểm bằng được "L19". Kết quả báo cáo gấp về trung tâm".

Nhân vật "TQ2" đã gợi sự tò mò trong tôi - Hẳn là một người rất quan trọng, cao siêu về nghiệp vụ mới được giao đảm nhận việc này. Quả là chui vào hang cọp. Là người có trách nhiệm trực tiếp mã hóa những báo cáo của cụm về trường hợp "L19" gửi trung tâm nên tôi càng thầm nể phục vị cán bộ  nào đó được cấp trên tin tưởng giao cho nhiệm vụ này.

"L19" là một cán bộ cao cấp của ngụy quân Sài Gòn, hiện đang giữ chức vụ Phó cục trưởng một cục nghiệp vụ trong Bộ Tổng tham mưu. Nghe như tương lai sẽ được bổ nhiệm chức vụ Cục trưởng. Nhà ở ngay trong khu sĩ quan cao cấp. Cha của "L19" là người có cảm tình với cách mạng, quê ở Lái Thiêu. Trong báo cáo của cụm thường gọi là "ông già miệt vườn".

Ông có nhiều bạn bè tập kết ra Bắc, đã trở về Nam và ông đã tìm gặp họ đề xuất nguyện vọng xin được kéo con trai ông trở về với cách mạng. Theo lời "ông già miệt vườn" thì con trai ông chưa đến nỗi nào, dẫu là cán bộ cao cấp của quân đội quốc gia, nhưng không phải loại ác ôn, nợ máu với đồng bào. Vì hoàn cảnh mà nó phải vậy.

Đã nhiều lần ông ca cẩm, than phiền, trách cứ mà nó đều làm thinh. Rất tiếc là ông không đủ trình độ để thuyết phục nó. Nếu như đằng mình (ý ông nói tổ chức cách mạng) có cán bộ gặp gỡ chỉ cho nó đường hay, lẽ phải, cứu giúp nó thì ông mang ơn suốt đời...

Tác giả gặp lại một số giao thông viên  bí mật của J22 tại Hà Nội (5/1997). Bìa trái (đứng) - Bà Phạm Chi Lan (Tư Thu), người từng đưa đón TQ2 thời gian hoạt động tại Sài Gòn.

Nỗi niềm của "ông già miệt vườn" chẳng biết cách nào đó đã lọt tới tai lãnh đạo "B48". Sau khi tiến hành thẩm tra, xác minh và đi tới kết luận: Tình cảm và nỗi lòng của "ông già miệt vườn" là thật. Nhất là sau khi tiếp xúc ông, càng khẳng định điều đó. Vì vậy, lãnh đạo đơn vị đề ra phương án tiếp cận "L19" nhằm thuyết phục, cảm hóa, xây dựng anh ta trở thành cơ sở bí mật của đơn vị. Đây là mục tiêu lý tưởng mà công tác tình báo nhằm vào.

Song, cái khó khăn bậc nhất vẫn là tìm người thực hiện. Người có khả năng thì đều nằm trong căn cứ, không thể hợp pháp vào thành. Vì vậy, phải báo cáo xin chỉ đạo của trung tâm. Việc cử "TQ2" vào với danh nghĩa phái viên nhằm hỗ trợ đơn vị thực hiện kế hoạch trên, biểu hiện sự quan tâm, sâu sát của cấp trên.

Người khách mới ở khu cách ly

Các căn cứ của tình báo, an ninh thời kháng chiến chống Mỹ, dù lớn hay nhỏ, khi xây dựng cũng đều thiết kế có một khu cách ly dành cho cán bộ hoạt động hợp pháp trong thành mỗi khi có yêu cầu phải về căn cứ. Có thể là tổ trưởng điệp báo, điệp báo viên, cơ sở bí mật hoặc giao thông viên hợp pháp.

Chỉ ai được giao nhiệm vụ mới được vào khu vực cách ly. Đó gọi là quy chế cự ly ngăn cách, nhằm đảm bảo tuyệt đối an toàn cho khách. Cố nhiên, khách ở trong khu vực cách ly cũng phải bố trí hầm và lán riêng, không ai được tiếp xúc với nhau. Khách về căn cứ phải hóa trang, ngụy trang kỹ đề phòng tình cờ gặp ai trên đường cũng không biết rõ dung nhan.

Thời gian đó, căn cứ bám trụ của đơn vị ở khu rừng Vĩnh Lợi, địa bàn giáp ranh 2 huyện Bến Cát và Châu Thành, Bình Dương, cả đơn vị chỉ duy nhất có tôi quê miền Bắc, lại làm ở  bộ phận cơ mật - cái nghề được tuyển chọn, thử thách rất kỹ, anh em chúng tôi thường vui đùa - "đó là những người ba đời ăn củ chuối".

Vì vậy mà tôi may mắn được lãnh đạo thi thoảng cho vào khu vực cách ly, một số lần được trực tiếp gặp khách. Dường như lãnh đạo có ý để khách có điều kiện tìm hiểu về miền Bắc, đồng thời giúp tôi có dịp tiếp cận, tìm hiểu tình hình đô thị để khi cần có thể vào hoạt động hợp pháp trong thành.

Người đầu tiên tôi được gặp gỡ đó là giao thông viên hợp pháp Tư Thu. Chị hơn tôi mười mấy tuổi, coi tôi như đứa em út trong nhà. Năm 1954 chị tập kết ra Bắc, công tác ở Trường Đại học Sư phạm, mấy năm sau được tổ chức Trung ương quyết định điều về công tác tại Cục Nghiên cứu Bộ Tổng tham mưu (tên ngụy trang của Tổng cục II bây giờ).

Thời đó, Cục Tình báo được ưu tiên số 1 trong việc tuyển người. Bất kể cán bộ ở cơ quan, ngành nào, nếu tình báo tìm hiểu thấy người đó có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thì làm báo cáo đề xuất và được giải quyết luôn. Mãi sau này tôi mới được biết tên thật của chị là Vũ Chi Lan. Thời kháng chiến chống Pháp, chị công tác tại Hội Phụ nữ tỉnh Thủ Dầu Một.

Chồng là anh Võ Thế Đại, Tỉnh ủy viên tỉnh Thủ Dầu Một. Hai anh chị cưới nhau được mấy tháng thì chị lên đường tập kết ra Bắc, anh bám trụ địa bàn hoạt động, tới năm 1958 bị địch bắt đày đi Côn Đảo cho tới những năm đầu thập niên 60 không có tin tức gì.

Sau một khóa huấn luyện nghiệp vụ tình báo, chị được cử vào chiến trường "B" và trở thành giao thông viên "gạo cội" của B48 với nhiệm vụ chuyển tài liệu và đưa đón cán bộ hoạt động hợp pháp, cơ sở bí mật từ Sài Gòn về căn cứ. Ngoài chị Tư Thu tôi còn được gặp một số nhân vật bí mật nữa. Và tới bây giờ là vị khách mới này. Rất có thể đó là một cơ sở bí mật nội thành được đưa về căn cứ để trực tiếp nhận nhiệm vụ quan trọng.

Xuất phát từ cung cách đón tiếp của đơn vị mà tôi đoán vậy. Tôi được phân công hàng ngày mang cơm vào khu cách ly và ăn cùng khách. Tối, vào ngủ cùng lán để giúp khách việc căng võng và hướng dẫn khách xuống hầm đề phòng có phi pháo. Đó là một người có vóc dáng to cao dềnh dàng, cao hơn tôi cả một cái đầu. Tính tình vui vẻ, xởi lởi, tuổi chừng trên dưới bốn mươi. Sau lời chào của tôi, ông ngước nhìn vẻ ngỡ ngàng.

- Ủa!... chú em là người Bắc hả! Quê ở đâu ta?

- Dạ, em tên là Dương, Thái Dương, quê ở Sơn Tây. Em mới vô được hơn một năm. Tết này là 2 cái tết ở chiến trường.

- Cha!... thiệt may cho tôi, hôm nay lại được tiếp kiến người con của đất hai vua, người từ nơi "xứ Đoài mây trắng". Biết đâu lại còn là hậu duệ của thi sĩ Tản Đà!...

Chừng bấy nhiêu thôi, tôi đã thấy mê ông - một cán bộ điệp báo nội thành, người con của Nam Bộ thành đồng chính hiệu mà hiểu sâu về miền Bắc như vậy.

Thời ấy, chiến trường Đông và Tây Bắc Sài Gòn chưa căng thẳng, tôi và khách thống nhất căng võng ngủ ở lán cho thoáng. Một đêm với 2 người dù mới gặp, nhưng có vẻ tâm đầu ý hợp cho nên có biết bao điều tâm sự. Ấy là còn vì nguyên tắc, tôi không dám hỏi nhiều về ông. Song, chắp nối lại cũng có thể hiểu sơ sơ - quê ông ở miền Tây Nam Bộ. Ở vùng có địa danh "Cù lao Ba xã".

Thời đó nghe vậy chứ thực tình tôi chưa xác định địa danh đó ở tỉnh nào. Ông đi bộ đội đánh Tây. Ở đơn vị chủ lực, năm 1954 tập kết ra Bắc. Yêu một cô gái quê kém ông mấy tuổi. Hẹn nhau sau 2 năm tổng tuyển cử, thống nhất đất nước sẽ làm đám cưới. Ở đơn vị chiến đấu mấy năm thì được Cục II tuyển chọn, huấn luyện nghiệp vụ rồi đưa vào chiến trường.

Tới chi tiết này, ông vui đùa nói với tôi: "Bây giờ, ở chiến trường đánh Mỹ này, chú Thái Dương là cựu binh. Còn anh Hai trở thành tân binh mới toe. Vì anh ở ngoài kia mới vô được mấy ngày...". Tôi bỗng sững người, lạ nhỉ, sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế? Phải chăng, ông chính là "TQ2"?...

Chuyến đi đặc biệt

Tôi được ở cùng khách thêm một ngày nữa rồi ông rời căn cứ để vào thành. Tới lúc đó mới biết tên ông là Thăng (Hai Thăng). Tất nhiên đó chỉ là tên dùng ở căn cứ. Việc đón và đưa Hai Thăng đi đều do giao thông viên "gạo cội" Tư Thu đảm nhiệm. Hôm ấy chị diện áo dài trắng, bóp đầm trắng, ra dáng quý phái cùng "đức lang quân" về thăm quê ở miệt vườn Lái Thiêu.

Theo kịch bản, Tư Thu đưa phái viên về thẳng nhà "ông già miệt vườn". Tối hôm đó, phái viên và ông già bàn kế hoạch tiếp xúc "L19". Sáng hôm sau, hai "cậu cháu" (quan hệ ngụy trang giữa Hai Thăng và cha của "L19") đáp xe đò đi Sài Gòn và về thẳng nhà "L19". Hai Thăng ngồi chờ tại phòng khách.

Ông già lên lầu gặp con trai. Mươi, mười lăm phút sau, "L19" xuất hiện trong bộ mông-ta-gút màu cánh kiến, thật ăn ý với nước da bánh mật của anh ta. Hai người gật đầu chào nhau. "L19" ngồi đối diện Hai Thăng, nhẹ nhàng chuyển ly nước lọc về phía khách. Không khí im lặng nặng nề bao trùm căn phòng. "L19" để hai tay trên bàn, mặt hơi cúi xuống. Bỗng nhiên anh ta ngẩng lên nhìn Hai Thăng, giọng uy nghiêm, đe dọa:

- Nè! Tui hỏi thiệt, ông có biết ông đang ngồi ở đâu không? - Anh ta chỉ tay về phía chiếc điện thoại, nhếch miệng cười - Tôi chỉ cần nhấc ống nghe là ông bị bắt liền.

Hai Thăng khẽ cười, ngả lưng vào thành ghế, gương mặt quắc thước hơi ngước lên, đôi chân mày lưỡi mác nhíu lại gần nhau, ném cái nhìn xói vào mắt "L19":

- Câu hỏi và những điều anh vừa nói không xứng tầm một sĩ quan cao cấp của quân đội "Việt Nam Cộng hòa" như anh. Ngài Cục phó nên biết rằng, tôi là phái viên đặc biệt, được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cử vô đây, rời vùng giải phóng, ngay từ khi đặt chân lên vùng đất tạm thời do chính quyền Sài Gòn kiểm soát là tôi luôn có thể bị bắt, cần chi phải đợi tới lúc này.

"L19" cũng từ từ ngả lưng vào thành ghế, lại liếc Hai Thăng, đầu gật gật:

- Hiểu!… Tui hiểu chớ… nhưng mà nè… tôi hơi tọc mạch một chút, muốn hỏi ngài phái viên, bên phía Việt cộng, ông giữ chức vụ gì mà dám vô đây gặp một sỹ quan tầm cỡ như tui?…

- Ồ!… Hai Thăng khẽ thốt lên - một câu hỏi đầy chất ngạo mạn của một sỹ quan quân lực "Việt Nam Cộng hòa" - Hai Thăng dựng thẳng lưng, hai tay nhịp nhịp xuống bàn rồi chậm rãi - "Lịch sử, nói về những cuộc tiếp xúc, thương thuyết giữa hai phía, người ta đã rút ra một nguyên tắc gì nhỉ?... À!.. đó là "đối tướng, đối binh". Ngài Trung tá, Cục phó thừa hiểu, một khi cấp trên cử tôi vô tận sào huyệt đối phương để gặp anh… thực ra, vì nể tình ông già nên mới có cuộc tiếp xúc này, còn việc chính của tôi là để gặp những người còn là cấp trên của anh. Vậy chẳng lẽ người ta lại cử một người mà trình độ về mọi mặt lại chỉ bằng hoặc kém hơn đối phương! Phải vậy không?..

"L19" ngồi thừ ra, khuôn mặt chữ điền chùng xuống, hai khóe mắt rưng rưng. Bỗng nhiên anh ta đứng dậy, cúi gập người, nắm chặt tay Hai Thăng, miệng lập bập:

- Anh… Anh Hai! Xin anh bỏ qua cho những lời khiếm nhã vừa rồi. Thiệt tình thằng em… chỉ là giỡn với anh.

Hai Thăng vội xua tay:

- Không có chi, không có chi… hãy ngồi xống, còn nhiều chuyện tôi cần nói với anh - "L19" ngồi xuống, ngước nhìn khách, một cái nhìn e ngại.

Trầm ngâm giây lát, Hai Thăng tiếp lời, chất giọng trầm ấm của anh không phải chỉ dành cho người đối diện mà còn là tự sự với chính mình:

- Chiến trường đang diễn biến phức tạp, do Mỹ ồ ạt đưa quân vào. Điều đó càng thể hiện thế yếu của họ. Thể hiện sự lúng túng về chiến lược, tạo mâu thuẫn ngay trên chính trường nước Mỹ, càng lộ rõ bộ mặt xâm lược, bị thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ lên án. Chiến tranh vệ quốc chống ngoại xâm là chính nghĩa.

Chính nghĩa tất thắng, có chăng chỉ còn là thời gian. Lương tri thời đại, loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Mỹ ủng hộ chính nghĩa Việt Nam. Vậy hà cớ gì, những người mang dòng máu Việt lại thờ ơ với thời cuộc, nhẫn tâm đứng về phía kẻ thù của dân tộc. Cách mạng rất hiểu, rất cảm thông với những số phận bị xô đẩy do thời cuộc, bởi cuộc sống…

Với họ, vẫn có thể suy nghĩ lại khi thời gian còn chưa quá muộn. Vẫn có thể làm một việc gì đó có lợi cho cách mạng để chuộc lại lỗi lầm quá khứ ngay trên mảnh đất họ đang sống, ngay trong lòng cái thể chế phi nghĩa kia…

Sự im lặng lại bao trùm căn phòng. "L19" thẫn thờ thả tầm mắt vào một góc trần nhà, lâu lắm anh ta mới cúi xuống nhìn Hai Thăng, hai mắt đỏ hoe, nghẹn ngào: - "Anh Hai!.. Việc này ông già đã nói với tôi. Có điều… ngặt cho hoàn cảnh, một gánh nặng gia đình, bố mẹ già, một vợ và chín đứa con. Tất cả cuộc sống của họ đều trông vào tôi. Nếu tôi có bề nào thì… xin anh, xin Cách mạng hiểu cho… Tôi thề sẽ không làm điều gì có hại cho Cách mạng. Sẽ không để tay mình vấy máu đồng bào".

- Hiểu, tôi hiểu hoàn cảnh mới thực lòng nói vậy để anh suy nghĩ. Cách mạng không ép bất kể người nào. Có điều, ta cần sòng phẳng với nhau, thể chế Sài Gòn giống như một cỗ máy, thiếu mấy cái đinh ốc, sót mấy mối hàn trong động cơ điện thì cỗ máy đó làm sao vận hành được. Vì vậy tội ác đâu phải chỉ ở những người cầm súng trực tiếp bắn vào đồng bào mình. Thế thôi! Ông già còn nghỉ lại đây với các cháu. Cứ suy nghĩ kỹ, có gì thì nói lại với ông già. Bây giờ tôi phải đi vì nửa giờ nữa có một cuộc hẹn.

Rời nhà "L19", Hai Thăng ra bến xe đi thẳng về Lái Thiêu. Không ngờ chỉ nửa giờ sau đó "ông già miệt vườn" cũng về tới. Ông nắm tay Hai Thăng nghẹn ngào:

- Chú Hai! Mong chú và cách mạng bỏ qua cho tôi, bởi vô phước mới sinh ra một thằng con như vậy… Nó đã làm mất công tổ chức, phụ lòng của chú… Tôi vô cùng mắc cỡ với đời.

Hai Thăng lựa lời an ủi ông già rồi theo Tư Thu về căn cứ ngay chiều hôm ấy. Một buổi chiều buồn đối với Hai Thăng và cả người được giao nhiệm vụ đón anh. Đẫu chưa được biết nội dung, song với con mắt nghề nghiệp, Tư Thu cảm nhận đó là một chuyến đi không thuận buồm xuôi gió với đồng nghiệp của mình.

Lời giải cho một bí số

Những tình tiết trong chuyến đi đặc biệt của Hai Thăng như nêu trên chỉ mấy ngày sau là tôi được biết. Vì khuôn khổ bài viết nên không thể nêu hết được. Nó được tổng hợp trong báo cáo của Hai Thăng gửi về Trung tâm; thông qua điện chỉ đạo, động viên của cấp trên; qua tâm sự của nhân vật đóng vai "phái viên" và người tháp tùng trong các chuyến đi của anh là chị Tư Thu.

Sau chuyến đi đặc biệt ấy, Hai Thăng trở về căn cứ B48 chờ nhận nhiệm vụ mới. Cố nhiên đó là những ngày buồn của "phái viên". Nỗi niềm trong anh được giải tỏa sau khi nhận được điện của cấp trên với nội dung: "Hoan nghênh tinh thần khắc phục khó khăn, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh cấp trên của các đồng chí. Việc không dứt điểm được "L19" là chuyện bình thường. Đâu phải trận ra quân nào cũng giành chiến thắng. Dẫu sao, từ vụ này ta đã thu được nhiều thông tin bổ ích. Đó là tình cảm của quần chúng  trong vùng địch tạm chiếm đối với Cách mạng, trong đó có cả những sỹ quan quân đội Sài Gòn. Những người bên kia chiến tuyến đâu phải tất cả đều chống đối Cách mạng. Đây là một kênh thông tin giúp ta nghiên cứu phục vụ công tác binh, địch vận đạt kết quả tốt hơn…".

Chiến trường miền Đông Nam Bộ ngày càng sôi động, ác liệt. Hơn một năm sau, cấp trên quyết định nhập cụm B48 vào B49, chuyển căn cứ về bắc Bến Cát. Anh Hai Thăng được điều động thành lập một cụm mới, đảm nhận trách nhiệm cụm trưởng. Địa bàn bám trụ tại nam Bến Cát. Tôi chính thức xa anh từ ấy. Chưa đầy nửa năm sau, tôi lại nhận quyết định về H67, chia xa đất Bình Dương về mật khu "C" thuộc địa bàn Trảng Bàng - Tây Ninh.

Giữa năm 1969, tôi bàng hoàng, đau xót nhận được tin Hai Thăng đã hy sinh. Thương tiếc người đồng chí, người anh tôi vô cùng ngưỡng mộ, cảm phục, có lúc tự trách cho sự vô tâm của mình, sao hồi đó không xin anh một tấm hình làm lưu miệm! Rồi còn bao điều day dứt nữa cứ bám mãi theo tôi, từ quê hương bản quán, hoàn cảnh gia đình, tới họ hàng và tên thật của anh… tôi đều mù tịt.

Phải gần 41 năm sau tính từ ngày gặp gỡ, mọi day dứt trong tôi về anh mới được giải tỏa. Số là tháng 4 năm 2008, tôi nhận được thư của một người là Nguyễn Cao Minh, giới thiệu là em út của anh Hai Thăng, nhân đọc bài của tôi viết về nữ giao thông tình báo Vũ Chi Lan (Tư Thu) đang trên báo An ninh Thế giới, trong đó có phần nói về phái viên Hai Thăng, tôi mới vỡ lẽ.

Thì ra Hai Thăng là bí danh. Tên thật là Nguyễn Thăng Quang, tuổi Kỷ Tỵ (1929). Nguyên quán xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Gia đình có tới 10 người con (5 trai, 5 gái). Trong 5 người con trai thì có tới 3 người hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.

Qua bài viết này, tôi vô cùng biết ơn Nguyễn Cao Minh đã giúp tôi giải tỏa những điều day dứt bấy lâu. Không phải chỉ có thế, những tình tiết trong thư đã giúp tôi lý giải chính xác hơn về vị phái viên mang bí số "TQ2" ngày ấy. Thì ra con số 2 thức là thứ hai, T. là Thăng; còn chữ Q., tức là Quang (Hai Thăng Quang).

Tên người và bí số ấy đã trở thành những kỷ niệm hằn sâu trong ký ức tôi.

Hà Nội, tháng 12/010

K.M.D.
.
.