Khí phách Phan Đình Phùng

Thứ Ba, 01/09/2009, 15:44
Ngọn núi Pu Lai Leng vút cao gần 3.000 mét cuồn cuộn Trường Sơn từ phía Bắc đổ vào. Dòng sông Cả cắt ngang. Vượt sang bên kia sông, lại vút lên đỉnh núi Rào Cả cao trên 2.000 mét và mở ra một dãy Giăng Màn sừng sững phía Tây Hà Tĩnh. Trùng điệp núi non và sông suối cắt xẻ dữ dội. Rừng nguyên sinh rậm rạp xen với những trảng cỏ lau khô khét.

Ngàn Trươi đây rồi! Ngàn Trươi hiểm hóc rừng núi bao quanh. Những đỉnh núi dựng lên đột ngột, rồi lại khuất vào rừng nguyên sinh thâm u, rồi lại duỗi dài lan man theo khe suối. Lối vào gồ ghề, quanh co, khuất khúc như một mê hồn trận.Lối vào gồ ghề, quanh co, khuất khúc như một mê hồn trận.

Các nhà viết sử thường gọi Ngàn Trươi là Vũ Quang, chiến trường cũ của nghĩa quân Phan Đình Phùng. Đây cũng là đại bản doanh của nghĩa quân, được bao bọc bởi trùng trùng núi non hiểm trở của một vùng Hương Khê - Hương Khê non nước bao la/ Giang sơn riêng hẳn một tòa cõi Nam. Trong gió rừng ào ạt, ta còn nghe vang vọng hùng khí của bài ca thuở ấy.

Quan Đình người ở quê ta
Khí thiêng hun đúc sơn hà Hồng Lam
Vốn là dòng dõi họ Phan
Tiếng thơm Đông Thái đồn vang khắp miền.

Kinh thành Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi xuất bôn và hạ chiếu Cần Vương, khắp cả nước, Văn thân hưởng ứng. Có thể nói cuộc chiến đấu ròng rã mười năm trời của nghĩa quân Phan Đình Phùng là tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương. Dân gian đã ghi nhận và tôn vinh cụ trong ca vè:

Trời Nam gió bụi mịt mù
Quan Đình ngài vẫn giữ cờ không nao,
Hồng Lam tỏ mặt anh hào
Văn thân bốn cõi trông vào một ta.

Cũng như tâm trạng những nhà nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Đình Phùng tuôn lệ phải nhìn thấy cái cảnh Thảo mộc sơn hà phi hữu chủ. Kinh thành ô uế bởi bóng giặc đi lại nghênh ngang, xe sắt chạy đầy đường. Nhưng không hề bi lụy. Tấm cô trung của ông càng được thử thách như thỏi thép nung đỏ trong lò lửa.

Các đấng trung thần dưới triều đại cũ thường giữ gìn "cô trung" như bảo bối. Ngay lúc bấy giờ, Nguyễn Xuân Ôn cũng khảng khái: "Nhất phiến cô trung thiên địa bạch" (một mảnh cô trung trời đất tỏ). Phan Đình Phùng trừng mắt Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn trong bài thơ "Đáp hữu nhân ký thi" (đáp thơ người bạn gửi đến":

Bách niên tôn xã dư hoài nhiệt
Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn
Ký ngữ đồng nhân tri dã phủ
Sở Vương thế lực bạt hà san?

(Lòng ta nung nấu nghĩ đến tôn xã xây đắp hàng trăm năm/ Một tấm cô trung đủ làm cho giặc sợ mất vía/ Gửi lời hỏi bạn đồng sự cũ có biết hay không/ Thế lực vua Sở đã nhổ được quả núi nào?). Những bài vè dân gian hồi ấy ca ngợi quan Đình phảng phất âm điệu hùng khí của Đại Nam quốc sử diễn ra. Trong cuốn "Phan Đình Phùng", Đào Trinh Nhất cũng miêu tả cái cảnh dân chúng nô nức kéo nhau ra đứng dưới cờ nghĩa: Một vùng nông thôn êm lặng. Thế mà nay "cờ quạt rợp trời, chiêng trống dậy đất, gươm đao sáng quắc, đèn đuốc thâu đêm (…). Vui nhất là trông thấy cái quang cảnh những người nghe cụ khởi nghĩa binh mừng rỡ múa hát, nào kẻ thì dắt trâu gánh gạo đến để khao quân, nào kẻ thì nách thước tay đao đến để vào ngũ, làm cho đường sá đi lại tấp nập ngày đêm, biến hẳn quang cảnh nhà quê ủ rũ vắng vẻ kia, trở nên một nơi hùng tráng vô cùng, khí phách vô cùng…".

Khi đã lập lại đồn Ngàn Trươi, nghĩa quân cầm cự với giặc suốt sáu bảy năm trời. Để mở rộng phong trào, cụ thảo một bài hịch để cổ vũ sĩ phu đang dấy nghĩa ở các vùng khác:

"… Phùng tôi là người học ít tài hèn, gánh vác công việc lớn lao này, sáu bảy năm trời, chưa có làm nên được việc chi rực rỡ. Chẳng qua chặn trước vấp sau, lui tới chỉ những rừng núi, thật bấy lâu xót dạ đau lòng, không biết lo tính làm sao được. Các ông có chí lớn tài to, nếu không muốn đem ra cho nước nhà dùng đi nữa, thì cũng nên đem mưu lạ chước hay ra dạy bảo cho tôi để cứu lấy sinh dân, thì Phùng xin nhả cơm bới tóc sẵn lòng nghe theo. Như thế thì tuy các ông ở chốn thảo dã, mà cũng có cái công báo nước giúp đời, vậy đừng coi việc đó làm thường, nỡ ngồi làm thinh để ngó non nước đổi dời, mà chẳng ra tay cứu vớt…"

Bài hịch lan truyền rất nhanh. Lời văn vừa khiêm tốn vừa thiết tha, cảm hóa được sĩ phu khắp miền Trung Việt. Phan Đình Phùng nhận được sự ứng cứu từ nhiều nơi dồn về bằng nhiều cách; hoặc là hiến mưu kế, hoặc là hiến quân, hoặc là hiến lương thực, hoặc là mật báo những tin tức dò được của Pháp… Thanh thế của nghĩa quân họ Phan ngày càng lớn.

 Trong quá trình điều hành việc quân, cụ thường lấy cái nhu để trị cái cương, nói đúng hơn là để điều chỉnh cái cương, thắng cái cương. Nguyên tắc hành xử này thể hiện khá rõ trong thơ văn. Lời văn lời thơ không cường điệu, không khoa trương, mà luôn luôn điềm đạm, chất phác, khiêm nhường. Trong những ngày lưu lạc ở đất Bắc, giả danh làm ông đồ gõ đầu trẻ, để bắt mối với các sĩ phu Bắc Hà, tâm trạng buồn bã, cụ vẫn giữ cái nguyên tắc Ngô gia hữu giáo căn trung hiếu (gia giáo nhà ta gốc ở trung hiếu). Ngày mồng một Tết Mậu Tý (1888), cụ khai bút:

Lưu oanh đình ngoại ngữ hoa chi
Hoa báo xuân quy nhân vị quy
Bình lĩnh bách niên tư nhật nhiễu,
Hồng sơn vạn lý vọng vân phi
Ngô gia hữu giáo căn trung hiếu,
Khách địa vô tâm oán biệt ly
Giai tiết thị nhân hành lạc xứ,
Ngã phùng giai tiết bất thăng bi.

(Ngoài sân, chim oanh bay đến hót trên cành hoa/ Hoa báo tin xuân về mà người chưa về/ Núi Bình trăm năm còn nhớ lúc mặt trời rọi quanh/ Non Hồng xa muôn dặm, ngóng trông mây bay/ Gia giáo nhà ta gốc ở trung hiếu/ Nên dù ở đất khách cũng không có lòng oán hận nỗi biệt ly/ Tiết lành là lúc mọi người ăn chơi vui vẻ/ Ta gặp tiết lành buồn khôn xiết).

Khi trở về Hà Tĩnh, cụ nhận được tin buồn. Phan Trọng Mưu là người cùng với cụ hưởng ứng Cần vương, nhưng lúc này nghĩa quân của Phan Trọng Mưu đã bị giặc Pháp đánh tan tác, ông phải chạy trốn ra Nam Định. Nghe nói cụ đã viết bài thơ sau đây gửi cho ông để động viên ông giữ khí tiết nhà nho với lời lẽ nhũn nhẵn:

"Phiệt duyệt ngô môn tam thế tướng,
Sơn hà cố quận tích niên binh.
Nhân tòng biệt cữu tư đồng chí,
Sự đáo thời gian quý đại danh.
Lão tướng thùy nhân xưng quắc thước,
Nho thần hạ sách thệ thanh bình.
Bồi hồi ngã dạ tâm thiên lý,
Dao hướng viên tiền tá nhất minh.

(Ba đời khanh tướng nhà ta/ Đạo binh năm trước, sơn hà cõi xưa/ Người đồng chí, nỗi tương tư/ Trông thời thế những riêng như hổ mình/ Nhà nho khôn chước thanh bình/ Nhà tài quắc thước đã đành có ai?/ Năm canh lòng những bồi hồi/ Xa xa nay cũng thấu ngoài cửa viên).--PageBreak--

Chúng ta đã biết Hoàng Cao Khải và quan hệ giữa cụ Phan với ông Hoàng. Vào làng Đông Thái, ta càng thấy một cảnh tượng cực kỳ trớ trêu. Nhà cụ Phan ở đây. Nhà ông Hoàng ở đấy. Cách xa nhau mấy bước chân. Hai người lại là bạn đồng tuế, đồng môn, đồng hương. Thời thế oái oăm.

Một người tuyệt đối ích kỷ, chỉ lo vinh thân phì giá. Một người thì kính cẩn tôn thờ quyền lợi của dân tộc của Tổ quốc. Ấy thế mà khi nhận được thư dụ hàng của ông Hoàng, cụ Phan bình tĩnh đọc và bình tĩnh viết thư trả lời. Rồi ông Hoàng làm thơ gửi cụ.

Cụ làm thơ đáp lại. Con sông càng sâu càng rộng thì dòng chảy càng êm. Phải có một bản lĩnh rất mạnh, cụ Phan mới giữ được thái độ bình thản để phân tích cặn kẽ lý lẽ mà vẫn bộc lộ được cốt cách của một người đã thuộc đạo thánh hiền:

… Thập tải hồn du thanh tỏa địa
Vạn hàng huyết lệ bạch vân thiên.
Khổ tâm liêu hướng đồng tâm thoại
Tạc dạ tàn đăng độc tự liên.

(Mười năm hồn mơ chơi ở nơi cung khuyết/ Muôn hàng huyết lệ trông theo mây trắng trên trời/ Nỗi khổ tâm muốn nói nhưng vắng bạn đồng tâm/ Đêm qua dưới ánh đèn tàn, mình lại thương mình).

"Ấn tượng của dân làng Đông Thái: Cụ Phan vóc người thấp, nhỏ bé, dung mạo không có vẻ là một võ tướng hoặc là một nhà nho kiệt hiệt. Nhưng trong vóc dáng nhỏ bé ấy chứa đựng sục sôi bầu nhiệt huyết vì nghĩa cả và một tình thương bao la đối với đồng chí, đồng tộc, đồng loại. Tình thương của cụ thường không bộc lộ ồn ào, mà lắng sâu da diết, ngay cả khi viết câu đối khóc tướng Cao Thắng tử trận. Hồi đó, bọn Pháp thường dùng lính tập (người Việt Nam) đánh nhau với nghĩa quân. Cụ Phan truyền lệnh cho binh sĩ: "Hễ khi giáp chiến, có gặp cảnh vạn bất đắc dĩ hãy bắn giết lính tập, bởi họ là anh em đồng loại với mình". Sau một trận đánh, thấy xác lính tập nằm bên suối, cụ sai nghĩa quân lượm xác lĩnh tập và sĩ quan Pháp chôn cất tử tế và cụ cảm tác:

Nhĩ tâm nguyên vị lợi danh mi,
Khước hướng khê biên tặc tử thi.
Giám triệt thùy nhân ưng tảo ngộ.
Đáo thân tử hận hối hoàn trì.

(Lòng mày nguyên chỉ vì tham danh lợi/ Để đến nỗi làm cái xác chết bên khe/ Soi vết xe trước đã đổ, ai đó nên sớm tỉnh ngộ/ Kẻo đến khi thân chết rồi mới hối thì đã muộn).

Bọn Pháp dùng đủ mọi mưu ma chước quỷ để dụ cụ ra hàng, đều thất bại. Cuối cùng, chúng bắt người anh ruột của cụ là Phan Đình Thông đang chỉ huy một đồn nghĩa quân. Chúng dùng người anh này làm "con tin" và hung hãn đào quật mồ mả tổ tiên ở làng Đông Thái.

Cụ khảng khái trả lời: "Tôi từ khi dùng chư tướng khởi binh Cần Vương, đã có chủ tâm bỏ cả việc gia đình quê quán ra ngoài, không nghĩ gì đến nữa. Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam. Tôi chỉ có một ông anh rất to, đang bị nguy vong là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang phần mộ của mình thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu ông anh của mình thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu?...".

Sau mười năm quần nhau với một kẻ thù không cân sức, trong giờ phút lâm chung, cụ vẫn day dứt nỗi niềm dân nước được thể hiện trong bài thơ tuyệt mệnh:

Nhung trường phụng mệnh thập canh đông,
Vũ lược y nhiên vị tấn công.
Cùng lộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phi đồ biến địa thượng đồn phong.
Cửu trùng xa giá quan san ngoại,
Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung.
Trách vọng dũ long ưu dũ đại,
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.

(Vâng mệnh ở chốn binh nhung đã mười năm/ Mưu lược đánh giặc vẫn chưa nên được việc gì/ Dân chúng cùng đường đói khổ kêu trời như đàn nhạn không có chỗ ở/ Bọn giặc còn đóng đồn như ong khắp mọi nơi/ Xa giá của vua đang ở ngoài quan san/ Nhân dân bốn bể như sống trong nước sôi lửa bỏng/ Trách nhiệm càng cao thì mối lo càng lớn/ Nghĩ mình cũng trong cửa tướng, mà riêng thẹn với tiếng anh hùng).

Vùng chiến địa xưa đã trở lại thanh bình, Tấm bia ghi "Công trạng tội ác" của tên Việt gian Nguyễn Thân đã bị sét đánh vỡ. Sừng sững giữa núi Tùng Lĩnh ngôi mộ đá người anh hùng Phan Đình Phùng (ngôi mộ tượng trưng) với lời văn bia trang trọng của nhà sử học Trần Huy Liệu. Đàn chim lại tưng bừng ca lên nhịp điệu bất diệt của thiên nhiên và lòng người:

Trăm họ hớn hở đêm ngày
Trọng công đức ấy sánh tày mẹ cha.

Từ thuở ấy đến nay, nhân dân làng Đông Thái nói riêng và Nghệ Tĩnh nói chung vẫn gọi cụ Phan Đình Phùng một cách tôn kính và thân mật là "Quan Đình" (cụ đậu Đình nguyên tiến sĩ). Trong ca vè, nhân dân suy tôn cụ là "cha". Ngay từ những ngày còn binh lửa Cần Vương, hình ảnh Phan Đình Phùng đã hiện lên đẹp đẽ trong những đêm trăng hát phường vải:

- Đồn chường (chàng) là đấng tài ba.
Răng (sao) chưa theo gót chân cha lên ngàn?

- Hát đêm ni (nay) nữa với nàng
Rạng ngày tui (tôi) lại lên ngàn với cha.

Nhiều ông đồ Nghệ trân trọng chép thơ của cụ giấu lẫn vào những trang sách Thánh hiền. Và khi ngồi ngâm nga chén thù chén tạc, ông đồ lại vuốt râu, giọng sang sảng: "Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn (một tấm cô trung đủ làm cho giặc sợ mất vía). Bà con dân quê thì tự ca lên bài ca của mình, mộc mạc và hùng tráng:

Quan Đình là mẹ là cha
Lừng danh muôn thuở sơn hà Hồng Lam
Hiếu trung nguyền với giang san
Dù cho thịt nát xương tan cũng liều.

Tư liệu và thơ văn, ca vè được sử dụng để viết bài này đều rút ra từ: "Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (NXB Văn học 1970), "Phan Đình Phùng" của Đào Trinh Nhất (NXB Văn học 2000), sưu tầm trong dân gian Nghệ An, Hà Tĩnh

Võ Văn Trực
.
.