Hoạ sĩ Hoàng Phượng Vĩ: Những tiếng nói lặng im trong đêm

Thứ Ba, 02/12/2008, 11:00

"Anh sáng tạo vì không sao phản ảnhAnh cho đời những cái đời không cho"                            (Di cảo Chế Lan Viên)

1. Không hiểu sao, cứ mỗi một lần gặp Hoàng Phượng Vỹ, trong tôi lại trào lên những thương cảm. Nói điều đó ra, bản thân tôi cũng thấy vô lý, nực cười bởi trước khi trở thành họa sỹ trẻ tài năng và tên tuổi, Hoàng Phượng Vỹ có may mắn sinh ra trong một gia đình trí thức nòi, các anh chị gần hết là giáo sư tiến sỹ thành đạt ở trong và ngoài nước, anh là con trai út của nhà thơ nổi tiếng Hoàng Trung Thông.

Nhưng cảm giác thương cảm ấy là có thật trong tôi, và ắt hẳn Vỹ sẽ không hài lòng, sẽ dữ dội phản kháng. Có thể Vỹ sẽ giận tôi, sẽ siếc sẩm tôi là thứ "mậu dịch viên" (Vỹ vẫn thường hay gọi chúng tôi là mậu dịch viên, là đoàn thể, là số đông, trong khi Vỹ luôn đứng ở phía cá thể, tôn trọng cái tôi cá nhân hết mực).

Có lẽ một lần nào đó tôi đã thấy Hoàng Phượng Vỹ uống rượu với bạn bè. Giữa đám bạn hữu thân thiết (vì rất ít khi, Vỹ uống rượu mà không phải với những người thân, những người Vỹ bắt gặp ở đó một tiếng lòng, hay dẫu một chút nhỏ thôi, một tri âm tri kỷ), Vỹ uống và nói nhiều, đến say mềm, say khướt.

Những ý nghĩ chạy qua đầu, phát ra bằng những âm thanh líu ríu, sang sảng và trôi chảy đến ngọt ngào, cho dù những ý nghĩ ấy bản thân Vỹ cũng thốt ra trong vô thức, không liên quan đến Vỹ, không quan trọng đến người đối diện.

Lúc nào Vỹ nói nhiều, ấy là lúc Vỹ có một chút men say, một chút chất xúc tác, hoặc là khi Vỹ hoàn toàn tỉnh táo, ngọn ngành và khúc chiết khi nói về triết học, hoặc nói về thơ ca, văn học Nga, Pháp, Trung Hoa và một chút về hội họa...

Nhưng khi men say ấy đến độ, Vỹ lại im lặng. Giữa đám đông, giữa chúng bạn, giữa người thân, Vĩ uống không chỉ bằng môi, mà bằng ánh nhìn, bằng đôi mắt to, sẫm màu, lúc nào cũng như có rượu cháy ở trong đôi mắt ấy. Sâu trong đôi mắt ấy là một nỗi buồn vô hạn, một nỗi cô đơn không cùng, nỗi cô đơn ấy hiện lên, sừng sững trong bóng dáng Vỹ lúc Vỹ nâng chén rượu, lúc Vỹ nhìn sâu vào người đối diện mà thực ra là nhìn vào cõi hư vô ở phía trước mặt mình.

Trong giới họa sỹ, dung nhan Vỹ là một Man đích thực. Gương mặt Vỹ đẹp thật, góc cạnh, nam tính mà buồn (mặc dù cuộc sống của Vỹ nỗi buồn không có cơ hội để len tới. Vỹ sống thanh thản, bình dị trong căn nhà chung cư xinh đẹp ở Khu đô thị Thăng Long. Vỹ có một người đàn bà đậm đặc nữ tính (chữ dùng của Vỹ) làm vợ, yêu thương và âu lo cho Vỹ mọi điều. 

Họ có một con gái xinh đẹp và ngoan hiền - một tổ ấm hạnh phúc mà không phải ai cũng tạo dựng được trong cuộc sống nhiều mệt mỏi này). Vỹ không có cớ gì để buồn về họ, và cả những người thân rất thành đạt trong gia đình lớn của Vỹ.

Thế nhưng, một nỗi cô đơn trống trải vẫn mơ hồ trên gương mặt Vỹ, trong đời sống của Vỹ và chẳng thể khác đi được sự lẻ loi cô độc ấy một khi Vỹ sinh ra trong một gia đình học thuật chỉn chu, nề nếp, gia phong, mọi người đều nhìn Vỹ, một họa sỹ tự do với một ánh mắt khác lạ.

Vỹ thấy lẻ loi, đơn độc trên con đường mình đi, trong sự nghiệp mà mình đã chọn. Ngay cả bản thể con người Vỹ cũng vậy, luôn có một sự chấp chới chênh vênh giữa buông thả và giữ gìn, giữa phá phách và nghiêm túc trong chân dung diện mạo và cả số phận cuộc đời mình.

2. Thật ra, hội họa đã lựa chọn Vỹ. Một sự lựa chọn khắc nghiệt và đau đớn, như số phận của bất kỳ một người nghệ sỹ sáng tác nào. Họ đau đớn bởi bất lực trước chính mình, bởi một sự hiến thân trọn vẹn tình yêu với nghệ thuật và chính họ sẽ đổ vỡ bởi nghệ thuật, đổ vỡ với chính bản thân mình.

Đó chính là nỗi cô đơn không chia sẻ và thấu hiểu của một kẻ làm nghệ thuật. Hội họa đã lựa chọn Vỹ, đã lôi Vỹ từ cái đời sống đã chừng mực ổn định sau những vất vưởng, nhọc nhằn. Vỹ sinh ra trong gia đình nề nếp, nhưng cha Vỹ là nhà thơ Hoàng Trung Thông, một người lao động thực sự với cây bút của mình.

Dù ở những chức vụ cao trong sự nghiệp, nhưng khi về hưu, ở những thập niên 80, cuộc sống của một quan chức văn hoá văn nghệ như ông, cơm chưa chắc đã đủ no, rượu chưa chắc đã đủ uống, và niềm tin chưa chắc đã giữ trọn. Hoàng Trung Thông nổi tiếng là ông đồ xứ Nghệ say thơ say rượu.

Cuối đời, thú vui của ông là chống gậy lần ra quán rượu, ngồi nhìn ly rượu đầy trước mặt mà không chạm môi, vì lòng đắng nỗi nhân gian thế sự, nỗi nhớ bạn hiền đã bỏ ông khuất núi, cho đến khi bản thân ông cũng chìm vào cõi hư vô. Với các con, ông quyết không nhờ vả một ai để lo lót cho các con có một tương lai tốt.

Ở xứ Nghệ quê ông, con cái phải như những cái cây, tự tìm đất để mọc rễ, tự sống, tự tồn tại và oằn mình trong bão táp mưa sa để làm một cây cổ thụ. Vỹ học Trường Đại học Kiến trúc, tốt nghiệp đại học rồi, chàng kiến trúc sư trẻ dẫu làm thơ hay, lý luận học thuật giỏi, và dĩ nhiên nghề kiến trúc vững vàng, với một cái đầu nhiều chữ do đọc nhiều và nhớ nhiều khủng khiếp, nhưng ra đời, Vỹ vẫn phải đi trộn hồ, trộn vữa, làm thợ xây, đủ mọi thứ nghề lao động chân tay để kiếm sống, để tồn tại, và để vất vưởng bởi những giày vò đau đớn vì Vỹ, con người tài hoa, nặng lòng với cái đẹp sinh ra không phải để làm thợ trộn hồ, để làm thợ xây, hay bất kỳ một người lao động chân tay nào hết.

Rồi sau những ngày tháng vất vưởng, khi cái nghề kiến trúc sư của Vỹ đã có thể mang lại cho Vỹ một cuộc sống ổn định, thì Vỹ lại bỏ nghề. Vỹ bỏ nghề bởi hồi sinh viên, Vỹ ám ảnh mãi một lần, Vỹ ký họa bằng bút bi bức chân dung của cha mình là Hoàng Trung Thông, Vỹ đưa cho họa sỹ Nguyễn Sáng xem, ông đã quay sang nói với Hoàng Trung Thông: "Ông để nó đi theo con đường hội họa.

Đó mới chính là con đường của nó". Vỹ đã mang theo câu nói ấy trong những năm tháng cực nhọc của tuổi trẻ, và tình yêu đối với hội họa thì chưa bao giờ nguội tắt, nó âm ỷ như những hòn than trong bếp lửa mùa đông giá, có thể bùng cháy bất kỳ trước một cơn gió nhẹ.

Và Vỹ đã bỏ một nghề nghiệp mà nhiều người mơ ước là kiến trúc sư để đi vẽ, hiến thân cho hội họa. Quyết định đó có thể đã dẫn Vỹ bước sâu hơn vào nỗi buồn, sự cô đơn mà Vỹ muốn.

Vỹ uống rượu từ khi anh còn rất trẻ. Đó cũng là sự khiếp hãi, nỗi buồn và những âu lo trải dài dằng dặc trong cuộc đời của mẹ Vỹ, người vợ đã đi qua những cơn say của người chồng hay rượu, đến những cơn say của cậu con trai mà bà thương nhất trên đời.

Vỹ uống rượu từ khi Vỹ chưa biết yêu, chưa thành một người đàn ông thực thụ, hay từng trải. Những giọt cay đắng ấy như thấm từ cuộc đời của người cha, của những bạn bè ông, chảy vào đời Vỹ, vào số phận Vỹ như bắt buộc phải thế. --PageBreak--

Vỹ biết cảm trọn nỗi đơn độc, cô liêu của những đêm dài cha mình chỉ thức, không ngủ và ngồi trò chuyện thâu đêm với chiếc bóng của mình. Vỹ tìm đến rượu như một sự lý giải cái thế giới xung quanh, môi trường xung quanh từ người cha đưa lại (từ nhỏ Vỹ đã được hầu chuyện với những người bạn nổi tiếng của cha mình như Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm,v.v.).

Nhưng có khi Vỹ tìm đến rượu cũng như là để nhận ra mình trong thế giới xung quanh, bày tỏ sự phản kháng của mình trong thế giới xung quanh. Vỹ uống là để lặn sâu hơn vào cái thế giới ấy, ở đó, Vỹ tha hồ phá phách, quẫy đạp và thất vọng. Tất nhiên, rượu không phải là thứ chiếm trọn Vỹ. Chỉ thỉnh thoảng thôi, lúc nào cần phải thế, lúc nào có bạn bè, Vỹ đã uống như một người đàn ông thực thụ vậy đó.

3. Trong thập niên 90, Vỹ là một trong số ít ỏi họa sỹ trẻ có nhiều giải thưởng Mỹ thuật Việt Nam nhất, trong đó có một giải thưởng nước ngoài danh giá. Giải thưởng Đông Nam Á cho bức tranh: "Trò chơi". Vỹ vẽ không ào ạt, sức vẽ của Vỹ là thoải mái mà kỹ lưỡng, là tài hoa mà không tài tử.

Ban đầu Vỹ vẽ chính mình, bóng dáng của mình, đấy là hình ảnh những người đàn ông cô độc trong quán rượu. Vỹ vẽ về sự thánh thiện của tình yêu, vẻ đẹp trong trắng của những người đàn bà. Bây giờ Vỹ tập trung vào vẽ trẻ thơ. Thật ra tất cả những gì mà một người họa sỹ như Vỹ khi vẽ, dù hoan lạc hay đau khổ thì đều là để tôn vinh và thức tỉnh lương tâm con người.

Những ngày này, tôi có may mắn được đến nhà của Hoàng Phượng Vỹ để xem những bức tranh mới nhất mà anh vẽ. Nhìn những bức tranh anh vẽ về thế giới tuổi thơ, với màu sắc tươi tắn và trong trẻo của anh, với một thứ bút pháp hồn nhiên đến lạ lùng, tôi nhìn thấy đằng sau những bức tranh ấy, đằng sau đôi mắt buồn luôn nhìn thẳng vào hư vô ấy là một vùng nhạy cảm, vùng trong sáng thuần khiết nhất trong tâm hồn anh, của con người anh.

Tôi có cảm tưởng như sự phản kháng về thế giới xung quanh của Vỹ trong hội họa, trong đời sống cũng là một cách để tìm lại những vùng sâu khuất lấp và thuần khiết nhất của con người.

Sự phản kháng ấy không phải là cứ căm ghét cái xấu thì vẽ về cái xấu như một sự lên án, trừ khử, mà sự phản kháng lại cái xấu, cái độc ác, cái bon chen mệt mỏi của thế giới xung quanh chính là vẽ về những vùng trong trẻo, sự thuần khiết trong tâm hồn của con người.

Cũng giống như một số họa sỹ đương đại hiện đang được công chúng chú ý và mến mộ, Hoàng Phượng Vỹ cũng mở những triển lãm tranh ở trong và  ngoài nước. Tranh của anh chủ yếu bán cho những người nước ngoài. Những bức tranh của Hoàng Phượng Vỹ mang đến cho con người một sự trong sáng thuần khiết và đẹp đẽ. Nó chạm tới phần triết lý tôn giáo trong những biểu đạt nghệ thuật.

Tôi đến căn nhà của Hoàng Phượng Vỹ, thấy Vỹ nhiều hơn trong ngôi nhà của anh, giữa những bức họa và sự ẩn mình. Nghệ thuật là những tiếng nói trong im lặng của Vỹ. Vỹ cũng giấu mình trong sự im lặng nơi căn nhà này để vẽ.

Vỹ luôn muốn nói rằng, nghệ thuật thường là giản dị hoặc bí ẩn nhưng khi người xem phải thảng thốt kinh ngạc. Vỹ nói, Vỹ chỉ thú vị khi vẽ. Còn vẽ xong rồi, ngoái lại tác phẩm của mình, thường là một sự đổ vỡ và thất vọng về chính mình. Tôi rất thích những câu thơ của nhà thơ Ngô Thế Oanh, một người bạn thân của Vỹ viết về Vỹ thế này:

"và tôi nghe như tiếng trái tim
trái tim đập âm thầm sau nét vẽ
và tôi nghe như tiếng tình yêu
ình yêu đặt bàn chân rất nhẹ
và nghệ thuật, nghệ thuật thường lặng lẽ
như những gì tôi gặp chiều nay".

Như Bình
.
.