Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và nhà thơ Chế Lan Viên:

Có một tình bạn "bù trừ"

Chủ Nhật, 01/06/2008, 13:30
Tháng 10 năm 1946, hội nghị Văn hóa cứu quốc diễn ra ở Hà Nội, cũng là lần đầu tiên cha tôi - nhà văn Nguyễn Huy Tưởng - gặp mặt nhà thơ Chế Lan Viên. Nhà thơ ở trong đoàn đại biểu Trung Bộ ra dự hội nghị. Miền Trung khi ấy đang đi đầu kháng chiến nên các đại biểu được hội nghị đặc biệt chú ý.

Riêng nhà thơ Chế Lan Viên, tác giả tập thơ "Điêu tàn" khi ấy mới 26 tuổi càng là tâm điểm của sự chú ý. Cha tôi không khỏi "choáng" trước nhà thơ kém mình tới 8 tuổi mà tên tuổi thì đã nổi như cồn, từng được ví như một thần đồng thi ca. Và đây là ấn tượng của cha tôi về họ Chế trong những ngày dự hội nghị: "Chế Lan Viên vẫn đột ngột, sáng chói như ngôi sao. Bị chinh phục bởi anh này" (nhật ký ngày 13/10/1946)...

Đầu năm 1951, hội nghị mở rộng Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam được tổ chức tại Việt Bắc. Nhà thơ Chế Lan Viên cùng nhà thơ Hoàng Trung Thông ra dự, hai ông đã có mặt trong bức ảnh nổi tiếng của nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu chụp 11 văn nghệ sĩ tham dự hội nghị.

Các ông xếp thành hai hàng, thế nào mà nhà thơ Chế Lan Viên lại ở vào vị trí trung tâm nhất - và cũng là người trông ấn tượng nhất. Tóc húi cao, tề chỉnh nhưng vẫn nguyên vẻ bù xù tự nhiên, nhà thơ mặc một chiếc áo dạ Tây có lẽ là hàng chiến lợi phẩm, chiếc áo có hơi rộng một chút so với vóc người tầm thước của nhà thơ, nhưng khi ông đứng khoanh tay lại thì vẫn ôm sát người. Tóm lại, trông ông vừa ngang tàng, nghệ sĩ vừa lại rất tề chỉnh...

Cha tôi đứng cạnh ông - nếu không tính đến nhà thơ Hoàng Trung Thông cúi lom khom ở giữa - tóc húi cua, trông khá khiêm tốn trong bộ đồ ka ki có lẽ cũng là hàng chiến lợi phẩm. Mỗi người một vẻ, cả những người khác cũng vậy, nhưng ai nấy đều thật tự nhiên, thân ái. Đó cũng là khoảng thời gian Đảng Lao động Việt Nam chính thức ra mắt quốc dân trở lại (3/3/1951), sau một thời gian tự giải tán, rút vào bí mật.

Cha tôi có đưa nhà thơ xem bản thảo bài "Đảng, Mặt trận, Hòa bình" viết nhân sự kiện  này, theo thói quen của các ông khi ấy, viết gì hay băn khoăn điều gì thường hay tham khảo ý kiến của nhau. Tác giả "Điêu tàn" đã tỏ ý khen khiến cha tôi cũng cảm thấy yên tâm hơn. Bấy giờ cha tôi còn đang viết dở vở kịch "Nhân dân ta", và có lẽ, cũng đã tham khảo ý kiến của nhà thơ (về vở kịch này, chúng tôi xin được trở lại sau). Từ đây, trong nhật ký cha tôi cũng như trong thư của nhà thơ gửi cha tôi, giữa hai ông bắt đầu một tình bạn gắn bó theo quy luật bù trừ: nhà thơ thì sắc sảo, còn cha tôi thì bình dị.

"Đi với Chế Lan Viên. Hồ Gươm lặng thầm. Chung quanh, đèn điện mờ mờ. Thành phố không vui. Có cái tự hào của chủ nhân, nhưng không có cái say sưa, cái gọi là chắp cánh" - đó là một trong những kỷ niệm của cha tôi với nhà thơ thời đầu hòa bình lập lại như ông đã ghi trong nhật ký ngày 8/6/1956. Có thể thấy ở đây sự nhận xét rất tinh tế của hai ông - hai nhà văn, đồng thời cũng là hai nhà văn hóa trước cái không khí - sinh khí của đất nước toát ra từ giữa lòng Thủ đô. Nhưng rồi nhà thơ phải sang Trung Quốc chữa bệnh - ông bị bệnh phổi và một chứng bệnh đàn ông khá oái oăm - nên từ đây mối liên lạc giữa hai ông là qua thư từ.

Thật may trong nhà tôi còn giữ được nguyên vẹn bốn bức thư nhà thơ gửi cha tôi trong thời gian điều trị bệnh bên nước bạn. Đó đã phải là tất cả hay chưa, về điều này tôi không dám chắc, nhưng ít nhất thì đó cũng là số thư nhiều nhất của cùng một người viết cho cha tôi mà chúng tôi biết được. Bức thư đầu đề ngày 10/11/1956, bức thứ tư, ngày 4/6/1957, nghĩa là chưa đầy hai tháng một bức thư liên vận.

Trong bức thư đầu, nhà thơ cho biết có một cuốn "Miền đất quả vàng" của Jorge Amado để gửi cho cha tôi (có lẽ bên Trung Quốc dễ kiếm sách hơn chăng), đồng thời chia sẻ với cha tôi cảm xúc khi đọc cuốn "Những con đường đói khát" của cùng tác giả: "Thằng cha ấy - cũng như các cậu Nam Mỹ khác, nói các vấn đề xã hội mà vẫn dồi dào cái thiên nhiên hoang sơ, man dại... Hoan (tên cúng cơm của nhà thơ - TG) mê quá. Nhưng lại mê thơ hơn, thành ra đang trút vào Neruda vậy".

Trút vào Pablo Neruda, nhà thơ cũng lại muốn chia sẻ với cha tôi. Thực tế ông đã chép và gửi cho cha tôi hai bài thơ của thi sĩ Chilê này - Je n'ai pas souffert, đánh số 1 và 2 - và chú thêm: "Gởi Nguyễn Huy Tưởng, trả món nợ Tagore và Rainer Maria Rilke ngày xuân". Có thể hình dung, một ngày xuân nào đó cha tôi đã chép tặng bạn thơ của Tagore và Rilke.

Về Tagore thì tôi có biết, ngay từ thời trước Cách mạng, cha tôi đã yêu say mê thi hào Ấn Độ này, song về Rilke thì quả là một sự bất ngờ đối với tôi. Cái ông nhà thơ người Áo tư sản yếm thế ấy có thể được nhà văn đồng hương Stephan Zweig đặc biệt ngưỡng mộ, như ông đã từng viết trong cuốn hồi ký "Thế giới những ngày qua", nhưng cha tôi với Rilke, một tên tuổi có lẽ đến giờ vẫn còn quá xa lạ với nhiều người chúng ta, thì quả là sự lạ!

Bức thư thứ hai, nhà thơ viết trong dịp Tết Đinh Dậu xa quê nhà, ông kể hôm mùng hai Tết đi công viên, ông chỉ ước ao giá lúc này được đi một vòng quanh hồ Hoàn Kiếm cùng cha tôi và bác Nguyễn Tuân thì thú biết bao. Chả là trước đó, cha tôi đã có thư gửi nhà thơ với mong muốn "bức thư sẽ làm vui Hoan ngày Tết". --PageBreak--

Trong thư, cha tôi cũng tâm sự với nhà thơ về việc ông xin rút công tác lãnh đạo để được tập trung sáng tác, đồng thời ngỏ ý muốn đề tặng nhà thơ vở kịch "Khiêng thuyền" ông vừa mới viết xong. "Khiêng thuyền" chính là vở kịch cha tôi đã bắt tay soạn trong kháng chiến mà ban đầu ông định lấy tên là "Nhân dân ta" như trên đã nói, nhưng khi viết lại ông quyết định đổi tên cho sát với hành động kịch hơn: vở kịch dựng lại câu chuyện bà con ở một vùng núi nọ không quản khó khăn nguy hiểm, quyết khiêng những chiếc thuyền cồng kềnh qua núi tới một khúc sông cho bộ đội có phương tiện vượt sông đánh giặc.

Tất nhiên nhà thơ đã rất cảm động nhận lời như ông đã viết trong thư: "Cảm ơn lòng tốt của Tưởng đối với Hoan, trong khi viết quyển ấy mà định tặng Hoan". Theo như tôi biết, đây là một trong hai tác phẩm cha tôi từng đề tặng trong suốt cuộc đời cầm bút của mình; cuốn kia là tiểu thuyết "An Tư", cha tôi dành tặng bà nội tôi sau khi người qua đời.

Bức thư thứ ba, nhà thơ viết cho cha tôi khi nghe qua nhà văn Nguyễn Văn Bổng cho biết cha tôi "đương buồn buồn". Bấy giờ là tháng 5/1957, cuộc đấu tranh tư tưởng trong giới văn nghệ đang diễn ra quyết liệt, bài tùy bút "Một ngày chủ nhật" của cha tôi đăng báo Văn từ cuối năm 1956, lúc này sắp bị đem ra phê phán.

Mặc dù cha tôi đã tìm thấy cứu cánh trong việc viết "Sống mãi với Thủ đô", nhưng đó lại là những ngày thiên nhiên cũng khắc nghiệt không kém con người. Nhật ký của cha tôi còn ghi lại: "Nắng quá. Bức không chịu được. Lo cho tác phẩm khởi công trong những ngày lửa bốc này" (22/5/1957)...

Ở xa, nhà thơ Chế Lan Viên chỉ có thể chia sẻ với cha tôi đến thế này thôi: "Hoan xa thực tế lâu quá rồi Tưởng ơi... Tình hình ở nhà cũng chỉ biết loáng thoáng qua tin, qua báo, vào thư từ. Trí óc vẫn tiếp tục suy nghĩ, trong tin tưởng mãnh liệt vẫn thoáng những buồn, những thắc mắc. Sự sống thắt lại những cái gút rồi chính sự sống sẽ mở ra. Nhưng không nên để cho cuộc sống mình thẳng đuồn đuột như một cái ruột ngựa...".

Song cuối cùng thì tình yêu thơ đã vượt lên những băn khoăn về thời cuộc, nhà thơ lại say sưa kể với cha tôi về sự khám phá Đỗ Phủ của mình: "Hoan đang tranh thủ học lại thơ Đường (phần Đỗ Phủ). Đã phá được cái váng phong hoa tuyết nguyệt đọng trên cái mặt yên tĩnh của thơ Đường. Và động chạm đến cái phần đầy nhân tính, hiện thực tính, đầy chính nghĩa của nó. Đỗ Phủ thật lớn, lớn trong sự giản dị của mình".

Thế nào mà gần đây, khi nảy ra ý tưởng viết về hai ông, tôi lại tìm được cuốn "Đỗ Phủ thi tập" do Nhà xuất bản Văn học cổ điển Thượng Hải xuất bản, trên đó còn lưu bút tích của nhà thơ Chế Lan Viên, bằng cả tiếng Việt và tiếng Trung. Có lẽ đây chính là cuốn sách họ Chế đã dùng để học lại Đỗ Phủ trong thời gian dưỡng bệnh ở nước bạn như ông đã nói trong thư, và khi về nước thì đem về làm quà cho bạn. Xem ra, giữa nhà thơ và cha tôi có nhiều cái gắn bó hơn là người ta tưởng...

Bức thư thứ tư, và cũng là cuối cùng trong loạt thư họ Chế gửi cha tôi, không đả động tí nào đến chuyện văn thơ cũng như thời cuộc, mà là, như nhà thơ có nói ở đầu thư, "giả lời Tưởng về cái vụ vừa rồi". Cái "vụ" ấy là một điều khó ngờ tới nhất giữa hai ông: kinh nghiệm về sinh đẻ có kế hoạch, hay nói nôm na là tránh thai.

Bấy giờ, cha tôi đang chuẩn bị cho việc sinh thành hai thực thể: Nhà xuất bản Kim Đồng mà ông làm giám đốc sẽ ra mắt bạn đọc vào ngày 17/6/1957 đã cận kề, và đứa con tiếp theo - đứa con thứ sáu và cũng là út ít của ông - dự tính sẽ chào đời vào nửa tháng sau đó.

Cảm thấy cuộc sống bề bộn, bản thân vất vả, vợ con nheo nhóc, cha tôi quyết định sau đây sẽ không sinh thêm con nữa; ông viết thư nhờ bạn hỏi kinh nghiệm bên Trung Quốc về việc tránh thai. Trong thư, có lẽ cha tôi đã băn khoăn, liệu như thế có gì là trái tạo hóa, có gì là vô nhân đạo không?

Nhà thơ đã có thư trả lời ngay: "Việc làm của Tưởng rất hợp đời, nhân đạo, nghệ thuật và Hoan sẽ phục vụ Tưởng. Nhưng nhớ giữ bem đấy". Bem là tiếng lóng có nghĩa là bí mật, từ các ông vẫn quen dùng với nhau. Có lẽ một chuyện như thế hồi bấy giờ là rất tế nhị, nên sau đấy, thay vì tái bút, nhà thơ còn dặn thêm cha tôi một lần nữa: (thật bí mật đấy), trước khi viết lời từ biệt: "Thương yêu". Thời gian đã đủ lâu để những chuyện riêng tư như thế có thể công bố để bạn đọc biết thêm về tâm thế của một thời nói chung, và tình bạn giữa nhà thơ Chế Lan Viên với cha tôi nói riêng...

Nguyễn Huy Thắng
.
.