Hôm nay là một ngày tươi đẹp

Thứ Ba, 02/08/2016, 10:18
Từ chữ "duyên" mọi sự được gắn kết. Và mở ra một chân trời mới. "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ".


Ngày nọ, chừng mười năm trước, có người bạn gái tìm gặp y và bảo: "Ba em vừa mất. Lúc còn sống, ông rất quý tập tài liệu này, thường đem ra ngâm ngợi, lấy làm tâm đắc. Em không rành gì về thơ, nhờ anh giữ giúp, ít ra nơi chín suối ba em cũng vui vì nó được trao đúng người". 

Tài liệu này chắc chắn chỉ mình y sở hữu. Không thể có bản thứ hai. Đó là hai quyển vở học trò, ngoài bìa có hình vẽ người nông dân đi cày, dưới in dòng chữ "Người cày có ruộng".

Trong 2 quyển vở này có cắt dán hàng trăm bài thơ thất ngôn bát cú đã in trên báo Đuốc Nhà Nam. Nhật báo này, số 1 phát hành ngày 9/10/1958, số cuối cùng ngày 3/9/1972, cả thảy 1.119 số do nhà báo lừng danh Trần Tấn Quốc (1914-1987) làm chủ nhiệm.

Thời trẻ, ông Quốc từng bị Pháp kết án vì tội "hoạt động phá hoại chống nhà nước", đày ra Côn Đảo. Đáng nể nhất, ra tù, ông Quốc đi làm báo và cũng là người tiên phong sáng lập giải Thanh Tâm rất sáng giá của sân khấu miền Nam.

Lật trang vở đầu tiên, thấy có cắt dán mẩu báo do ông Trần Tấn Quốc viết: "Lúc thân sinh tôi chưa khuất, người bảo tôi chép bài thơ dưới đây để nhờ thi nhân trong nước họa lại… Trải qua mấy tờ báo do tôi chủ trương mà tôi vẫn chưa làm theo ý người. Nay bỗng nhớ đấng sinh thành đã trở về cát bụi 8 năm qua, tôi xin thực hiện ý muốn của người". Bài thơ có tựa Mùa thu nhớ bạn, câu 6, ông Quốc quên vài chữ:

"Thu đáo trăng tròn chói sáng ê,
Đứng ngồi trông bạn vế đùi tê.
Dạo quanh bờ giếng trông bày ếch,
Đi quẩn vườn đào thấy bóng dê.
Vắng kẻ tri âm lời ú ớ,
... bản xàng xê.
Phải chi hội ngộ tình nhiều ít,
Thu mãn cô về sớm đến quê".

Từ ngày 25/12/1969 đến ngày 5/11/1970, nhật báo Đuốc Nhà Nam liên tục in các bài thơ họa. Thơ nhiều đến độ, thỉnh thoảng đôi ba số lại thấy tòa báo nhắn tin: "Cùng quý vị thi nhân: Thơ họa gửi đến nhà báo rất nhiều, có thể in cả năm. Vậy yêu cầu mỗi vị họa 1 hoặc nhiều lắm 2 bài thôi. Đành rằng, chúng tôi có quyền chọn đăng song một người họa những 6 bài đều khá hết thì chúng tôi mới làm sao? Tưởng nên tập trung hồn thơ lai láng để cô đọng 1 bài xuất sắc là hơn". 

Rõ ràng, thơ là thú vui tao nhã không thể thiếu của người Việt thuở ấy.

Hôm nọ, đọc báo mới biết đồng nghiệp Trần Nhật Vy vừa in tập sách Ba kỳ nhân của làng báo Việt Nam, viết về nhà báo Dương Tử Giang, Trần Tấn Quốc, bà Bút Trà; trước nữa, nhà nghiên cứu Thiện Mộc Lan cũng viết tập sách Trần Tấn Quốc - 40 năm làm báo, nếu có thêm tài liệu mà y đang giữ ắt hữu ích cho họ nhiều lắm.

Có nhiều người sở hữu lắm tài liệu quý, nếu không khai thác hết, cách tốt nhất nên đem cho những ai thật sự đang cần nghiên cứu. Từng nghĩ như vậy, nên cách đây khá lâu đã tặng nhà báo Hoàng Hải Vân của Báo Thanh Niên tập tài liệu liên quan đến nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo. 

Đó là loạt bài đăng nhiều kỳ trên nhật báo Hòa Bình - ấn hành tại miền Nam do Trần Du làm chủ nhiệm, được cắt dán cẩn thận, viết về những ngày cuối cùng, về cái chết của Phạm Ngọc Thảo.

Có những tài liệu, dù biết rằng quý nhưng không thuộc sở trường, không thuộc đối tượng, lĩnh vực nghiên cứu, vậy giữ làm gì? Có những thứ mình bo bo giữ lại nhưng thật ra là mất. Nếu đem cho người khác, tưởng mất nhưng lại còn bởi người sử dụng biết cách gìn giữ, phát huy tác dụng cần thiết của nó.

Với hàng trăm bài thơ xướng họa của song thân nhà báo Trần Tấn Quốc, lúc nào nhàn rỗi sẽ phân tích sâu hơn. Trước mắt, chép lại vài bài thơ của một nhân vật nổi tiếng không kém: Hồ Hữu Tường (1910-1980). Số báo ra ngày 1/1/1970, ông Tường có bài họa Lý Toét ra thành:

Ngôn ngữ quái gì ứ với ê?
Uống ăn cay đắng lại mùi tê.
Nhởn nhơ váy ngắn phơi đùi ếch,
Phất phới râu xồm cởn máu dê.
Nhạc Tuýt xuống lên lời ớ ớ,
Vũ trường đảo lượn đít xàng xê.
Cao bồi nữ quái nhiều không ít,
Lý Toét âu đành chịu: "Tớ quê".

Rõ ràng thập niên 1970, nhạc Tuýt đã thịnh hành ở Sài Gòn. Lại thán phục gớm cho các ông Tự Lực Văn Đoàn: nhân vật trào phúng đã từng xuất hiện trên Phong hóa, Ngày nay từ thập niên 1930 đến nay vẫn còn sừng sững ra đó. Xây dựng nhân vật điển hình, từ tranh châm biếm, hí họa, giỏi đến thế là cùng.

Trước năm 1975, trên báo chí miền Nam, họa sĩ Ớt khắc họa được nhân vật Tổng Thẹo; sau này, trên Kiến thức ngày nay, họa sĩ Chóe cũng tạo được Gia đình bé Kiến... Tiếc rằng, các nhân vật điển hình ấy, nay vẫn còn quá ít trong dòng tranh biếm, trào phúng, hí họa Việt Nam.

Mà nhân đây nói luôn, thời kháng chiến, với bút danh Trần Quang, ông Trần Bạch Đằng lúc ở chiến khu có viết bài báo nổi tiếng: Ra ngõ gặp anh hùng. Câu đó, khái quát cho một thời. Thời nay, có lẽ phải cần "cải biên" một chút: "Ra ngõ gặp nhà thơ".

Cứ nhìn trên các mạng xã hội hiện nay ắt rõ. Thơ post lên đó dạt dào. Tha hồ mà đọc. Nhưng phải nhìn nhận rằng, thơ của ta giàu về nhạc điệu, chữ nghĩa chắt lọc nhưng hầu như chưa nhiều bài thơ mang triết lý sâu sắc.

Sở dĩ thoáng có suy nghĩ ấy, bởi vừa đọc một bài thơ nước ngoài. Bài thơ Ngày tệ nhất ư? (Worst Day Ever?) của em Chanie Gorkin, 16 tuổi, học sinh lớp 11 Trường Trung học nữ Beth Rivkah ở Crown Heights, Brooklyn, New York (Mỹ). Em gửi dự cuộc thi thơ của trang web PoetryNation.com.

Cuộc thi thơ này, giải nhất 35.000 USD. Worst Day Ever? có lọt vào mắt xanh của ban giám khảo? Ta hãy chờ xem. Chỉ biết rằng, sau khi công bố, bài thơ lập tức gây sốt trên mạng khắp thế giới. Nhiều người biểu dương: "Đây là bài thơ đã khích lệ tinh thần cho cả London".

Nguyên văn Worst Day Ever? (bản dịch của Nha Đam) như sau:

"Hôm nay quả thực là một ngày tệ hại chưa từng có/ Và đừng cố thuyết phục tôi rằng/ Mỗi ngày đều có ít nhất một điều tốt đẹp/ Bởi, nếu bạn nhìn kỹ hơn/ Thế giới là một nơi quỷ quái".

"Ngay cả khi/ Những điều tốt đẹp ít ỏi thỉnh thoảng cũng tỏa sáng/ Nỗi thỏa nguyện và niềm hạnh phúc thiếu bền lâu/ Và chẳng có đâu/ Sức mạnh của trái tim và tâm hồn/ Bởi/ Hạnh phúc đích thực có thể giành lấy được/ Giá như xung quanh chúng ta đầy điều tốt đẹp/ Nhưng điều tốt đẹp chẳng tồn tại đâu".

"Tôi chắc rằng bạn sẽ đồng ý/ Thực tế/ Tạo nên/ Thái độ/ Mọi thứ nằm ngoài kiểm soát/ Và một triệu năm nữa, bạn cũng không bao giờ nghe tôi nói rằng/ Hôm nay là một ngày tươi đẹp".

Bài thơ này, có gì đặc biệt?

"Nếu chỉ vậy, không có gì đặc biệt. Điểm đặc biệt nằm ở chỗ bài thơ này có thể đọc ngược từ dưới lên mà vẫn có nghĩa. Và ý nghĩa hoàn toàn trái ngược 180 độ. Tác giả đã rất tinh tế khi để các câu có tính phủ định trước mỗi câu, để đến khi đọc ngược, ý nghĩa từ phủ định chuyển thành khẳng định". Dư luận cộng đồng mạng đánh giá là "một sự suy tưởng ngoạn mục" (Báo Thể thao & Văn hóa ngày 25/7/2015).

Những ngày này, Sài Gòn thường có mưa về buổi chiều. Bạn bè đã có những lời mời du hí nơi nọ nơi kia, tham quan danh lam thắng cảnh ở Nha Trang nhưng từ chối. Dường như ông Khổng Tử bảo rằng, khi song thân đã già, con cái chớ nên đi chơi xa, huống hồ gì mẹ y đang bệnh rề rề, bỏ đi chơi sao đặng?

Chiều qua, nằm nhà đọc tạp chí Thơ số 8/2015 do Hội Nhà văn Việt Nam gửi tặng hội viên. Chú ý đến bài viết của nhà nghiên cứu Lại Nguyên An về bài thơ Hoàng hoa của nhà thơ Bích Khê. Từ chi tiết, bài thơ này khi đăng tuần báo Tiểu thuyết thứ Năm (số 30, ra ngày 11/5/1939) có dòng đề tặng: "Kính tặng Đ.Thị Điểm", ông Lại Nguyên Ân đã suy luận và "giải mã" được một số từ mà người đương thời khó cảm nhận.

Chẳng hạn, học giả Phan Khôi dẫn một đoạn thơ ở bài Hoàng hoa rồi chất vấn: "Lam nhung" là gì? "Xanh nhung" là gì? "Chim Yên" là gì? "Xương cây" là gì? Chẳng có nghĩa gì cả!".

"Chẳng có nghĩa gì cả" thật sao?

Nay, ông Lại Nguyên Ân lý giải: "Nhắc đến Đoàn Thị Điểm ở đây chắc chắn là nhắc đến bản nôm Chinh phụ ngâm. Vậy là những tên đất như Yên, Hàm Dương, Tiêu Tương, Dương…, những tên chim, tên hoa như oanh, quyên, uyên, đào, phù dung, hoàng hoa… - đều là "trích xuất" từ Chinh phụ ngâm. Ngay cái từ gọi "chàng" cũng vậy.

Ở đây chỉ không xuất hiện từ tự xưng "thiếp" trong khúc ngâm chinh phụ kia, vì đã được thay bằng "ta"; và như để tương thích với thời đại, ngay "chàng" cũng được đặt vào một chuyển hóa với "tình lang".

Đặt trong sự tương ứng rõ rệt với thế giới của Chinh phụ ngâm, sẽ chẳng khó khăn gì để thấy rõ toàn bài Hoàng hoa như là một khúc trữ tình của người chinh phụ đang ngóng chồng vào một buổi chiều thu. Nỗ lực nhiều nhất của nhà thơ ở đây, có lẽ không phải là tạo những hàm nghĩa tiềm ẩn hay tân kỳ, mà chính là tạo ra một nhạc điệu".

Hoàn toàn chính xác. Tri kỷ với người xưa, được thế, có mấy ai?

So bài thơ đã in trên Tiểu thuyết thứ Năm và khi đưa vào tập thơ Tinh huyết, Bích Khê đã bỏ đi một số câu, vì thế Hoàng hoa trở thành bài thơ tình đôi lứa, hoàn toàn thoát ly không khí chính trị, thời sự theo ghi nhận của ông Ân: "Bài Hoàng hoa được công bố năm 1939, năm mà những tin tức về cuộc Thế chiến thứ hai khởi lên từ châu Âu đang gia tăng độ ám ảnh lên dư luận tại Việt Nam. Tức là, ở một phía nào đấy, bài thơ này động đến một trong những lo âu vẫn chưa thôi đeo bám trong hồn dân Việt, tính đến thời gian ấy. Và thời gian đã cho thấy ám ảnh kia là thực, như chúng ta đã biết".

Có những bài thơ đã in báo, nhưng lúc tuyển lại, in thành tập, sự chỉnh sửa của chính tác giả có thể làm bài thơ đó hay hơn; hoặc ngược lại. Tiêu biểu cho trường hợp này, có thể kể đến trường hợp Mấy vần thơ của Thế Lữ, một loạt thơ thời kháng chiến của Quang Dũng v.v…

Trưa rồi. Nghỉ ngơi thôi. Lại cầm lấy 2 tập vở cắt dán đầy thơ xướng họa của song thân nhà báo Trần Tấn Quốc, nhìn trang giấy vàng ố, tự dưng bùi ngùi. Lật trang bìa sau, thấy có in bản cửu chương lại nhớ thời đi học quá chừng. Kỷ niệm êm đềm của đời người, đôi lúc chỉ đơn giản thế thôi. Nghĩ như thế, để thấy, chung quanh mình còn có biết bao "kỷ vật" rất đáng yêu.

Lê Minh Quốc
.
.