Mắc kẹt thời gian ở Luang Prabang

Thứ Sáu, 13/04/2018, 08:04
Nhiều ngày ở Luang Prabang, tôi tự hỏi mình đang ở quãng nào của một Đông Dương từng xuất hiện rất nhiều trong văn học phương Tây? 

Khi nắng chiều in những nan hoa gỗ từ một cửa nhà trên con phố mơ màng buồn ngủ ở Luang Prabang, tôi choàng tỉnh, thấy mình như đã mắc kẹt trong một quá khứ Đông Dương đầy hương thơm, sự trằn trọc thương nhớ và ám ảnh cũ nát của những ban công nhà kiểu Pháp trải khắp xứ sở này.

"Em có bao nhiêu giấc mơ muốn thành sự thật ở thị trấn bé nhỏ này?” - Người du khách già đứng chung chuyến đò cùng tôi trên sông Mekong đã hỏi như vậy.

Tại sao lại là mơ? Tại sao bất cứ ai tìm đến nơi này cũng nghĩ rằng phải mơ một điều gì đó? Tại sao Luang Prabang thường hiện ra trong tâm trí người phương Tây như một chốn thời gian bị mắc kẹt đâu đó. Nơi này không thể gọi tên là thế kỷ 21 với phố Tây lô xô những tay trẻ mê chơi đang đắm mình bên chai bia và mùa hè rực lửa ở Lào. 

Nơi này mờ nhạt đường nét của thứ đô thị cẩu thả và vội vàng xây cất lên đâu đó giữa Yangon, Sài Gòn hay Manila. Luang Prabang bị cô lập trong vùng trời và thế giới riêng. 

Vì một lẽ gì đó, nơi này được phong làm di sản thế giới khá sớm, và những tòa nhà thô bạo không được phép mọc lên hay bóp vụn những mảnh còn sót lại của thời gian.

Tôi luôn tưởng tượng thành phố này sống bằng mật ngữ, cơ chế và sự chọn lựa sinh tồn của riêng nó. Con phố đông đúc nhất mà khách Tây lui tới khi đêm về vẫn là những ngôi nhà xây vài chục năm trước, cửa gỗ gãy mục vài chỗ, sơn lại mới tinh tươm đầy sinh khí. 

Một con đường cuối phố bán thức ăn cho người Lào đi chợ cuối ngày tìm đến. Sự phục vụ hồn nhiên, ít rào đón, không cúi đầu (cho Tây), lễ độ vừa phải, nhưng thực phẩm luôn tươi rói và thức dùng được gói trong lá chuối, lá dong… tươi cháy xém. 

Vài con đường quanh bờ sông vẫn là hẻm nhỏ, đất bụi ngầu lên nếu đông người vượt qua, đi thẳng xuống mực nước Mekong - nơi người khách nhận biết họ là “người ngoài” ở thế giới kín bưng, bé nhỏ và trong lành này.

Nhà gỗ ở Luang Prabang hiện ra ở một hẻm nhỏ cây xanh, ẩn mình vào một hốc trong ánh chiều gay gắt. Chỉ có vài kiểu kiến trúc được phép duy trì ở Luang Prabang vì tính chất là di sản văn hóa và điều kiện để giữ gìn di sản. 

Nhà gỗ kiến trúc kiểu Lào đan xen với cửa sổ, trần mái, ban công cách tân kiểu Pháp như trong những biệt thự Đông Dương ta thường thấy khắp miền Bắc Việt Nam hay đồng bằng Sông Cửu Long. Không có nhà cao tầng. Không có kiểu “nhà cấp bốn” mái tôn sơ sài rệu rã đầy rẫy Đông Nam Á. 

Nhiều mái nhà rất cũ, han gỉ, không còn nguyên vẹn, nhưng vẫn giữ nét sạch sẽ, vườn hẹp nhỏ xanh mướt trước nhà, và cửa gỗ đục hoa văn đơn giản. Nhiều khung cửa đóng sớm khi hoàng hôn sụp tối, và mở bung ra trong sáng thật sớm chủ nhà quỳ bên hiên đợi nhà sư trẻ khất thực ngang qua và mỉm cười đón nhận phần thực phẩm được bố thí.

Tôi dành nhiều ngày ở Luang Prabang chỉ để nhìn nhà sư đi khất thực và cách dân địa phương cúng từng món ăn sáng. Chú tiểu bé tầm tuổi thiếu niên lũn cũn theo sau những người anh lớn hơn, và người đi đầu đoàn khất thực luôn là một vài nhà sư đĩnh đạc, hiểu biết, quen dân làng và biết chuyện trò với người bố thí.

Bà lão nhà gần chợ mở hộp đồ bố thí cho tôi xem, là xôi trắng, thêm vài phần bánh bao chay, một chút món ăn kèm khô. Các chú tiểu mang theo hộp đựng đồ khất thực sẽ nhận xôi từ tay bà. 

Mỗi cậu một phần nhỏ. Người dân cho nhà sư ăn, gửi cửa Phật sự tin yêu của mình. Và ở đâu đó giữa xứ sở này, con trẻ của họ, cậu bé nào đó vừa tới tuổi xuống tóc vào chùa cũng sẽ được người khác thương quen, đón nhận và cúng dường phần thực phẩm quý giá như vậy. Nhà sư trưởng nhóm luôn cúi đầu cảm ơn bà trước khi mọi người được nhận đồ ăn.

Không có hộp nào trong đó đựng tiền. Không có những hộp thức ăn bị vứt trộn đầy những món khác nhau vào như đâu đó ta thường gặp ở khu du lịch ồn ào tại Thái Lan hay Myanmar. Bà lão không quan tâm lắm du lịch đang bẻ cong và biến đổi thị trấn này ra sao. 

Nghi thức tôn giáo được duy trì với lòng tín cẩn và được đáp lại bởi trân trọng. Sau buổi khất thực sáng, từng món ăn được bày ra trên bàn trong gian bếp chùa, các chú tiểu ăn sáng, ăn trưa và dành cả ngày để học, đọc kinh và săn sóc ngôi chùa - sẽ là nhà của họ trong thời gian trước khi trưởng thành.

Cô gái khách Tây bước vào chùa, đem theo hàng loạt giá trị phương Tây mà du khách như cô cuốn đến Châu Á và đồng hóa, thỏa hiệp những gì chưa “tiện nghi” như ý họ trở thành một “căn cứ” nghỉ ngơi cho hồi ức Đông Dương của cha ông cô còn mơ màng nghĩ tới. 

Luang Prabang không tránh khỏi được dòng chảy đó. Những quán bar Tây sáng đèn. Khách sạn giả cổ từng căn phòng, liên tục tô đậm một Luang Prabang thuộc địa, gỡ bỏ những gì ít quen thuộc khỏi không gian để một vị khách Tây vừa thấy lạ lùng xứ sở, vừa quen giấc tiện nghi không sợ hãi gì. 

Nhưng chú tiểu chặn cô tại cửa chùa, chối từ cuộc tham quan vì cô không ăn mặc lễ độ vừa phải để bước vào phòng nghi lễ mà người địa phương vốn một lòng kính ngưỡng. 

Chú tiểu biết nói tiếng Anh: “Ngày mai cô có thể đến, và nhớ ăn mặc theo quy định này”. - Cậu chìa tờ quy định viết vài chữ đơn giản bằng tiếng Anh với hình minh họa và cười thật tươi, chắp tay chào. 

Sự nghiêm khắc khó chịu đó ít nhiều bị thỏa hiệp ở Thái (với việc cho thuê khăn quấn đùi với giá 100 baht tại Hoàng Cung Thái Lan) hoặc việc bán vé vào chùa ở Yangon. 

Luang Prabang thiết lập dòng chảy và sống của riêng họ, lách vào một ngách hẹp của cuộc xâm lấn văn hóa và kinh tế ào ạt, cố giữ lại thứ gì đó của riêng mình. Bảo thủ. Mềm mỏng. Xa xôi. Trong sân chùa, các chú tiểu bé đang chơi trò thảy đá cùng nhau, cười nắc nẻ và đuổi nhau chạy trong sân chùa. Hoa sứ rơi thơm ngặt mũi trong trưa hè nắng bạo liệt.

Trên bức tường của mái chùa Xieng Thong, hoa văn mosaic làm từ gốm và cách vẽ của họa sĩ hai thế kỷ trước vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng không có gì ngoài như thế. Ngôi chùa yên tĩnh. Không màu mè câu kéo tiền cúng dường. 

Lễ nghi diễn ra kín đáo, người tham quan không cách gì chạm vào được di sản Phật Giáo mà họ đang ra sức bảo vệ khỏi dòng lũ cuốn của thế giới hiện đại và bao nhiêu xung đột giá trị đang nghiền nát không gian tôn nghiêm ở khắp vùng đất Đông Dương đã từng rất chậm rãi và lặng lẽ.

Vào buổi chiều ở Luang Prabang, tôi đi bộ qua những ngã ba sông nối dòng Nậm Khan với Mekong. Hai con sông tạo thành khối không khí trong vắt bọc kín thị trấn nhỏ này trong sự mát lành, yên dịu và cả kín đáo đến khó chịu của nó. 

Những người địa phương đi bộ và nhìn dòng nước chảy. Ngư dân bung lưới dưới quãng nước lặng. Chiếc cầu tre bắc qua đoạn sông mùa cạn. Nhà sư đi qua sông, quày quả với túi đồ lễ đến một đám tang cần người đọc kinh yên ủi. Tôi chạm mặt vị thầy khi ông đi ngang. Cây cầu chênh vênh khi nước trở mình. 

Cứ mỗi mùa mưa đến, cây cầu sẽ bị cuốn trôi. Nhà ngư dân đó sẽ đan lại cầu khi nước lặng dần và rút đi. Họ thu chút tiền lẻ của người qua cầu, và lắc đầu không tính vé người tu hành. Tôi hỏi bà vì sao lại đan cây cầu? - Vì đó là cách kiếm sống, nhờ có cây cầu mà có tiền cho con đi học và tiền chợ. Chồng bà giăng lưới mỗi chiều ở quãng sông gần đó.

Sẽ không cần cây cầu bê tông nào bắc qua quãng sông này, như cách nhà thầu xây dựng sẽ nhìn để nối hai bờ của con sông với một giá trị kinh tế nào đó. Luang Prabang bảo thủ với cây cầu tre của riêng nó và chỗ đứng cho một gia đình ngư dân đan cây cầu. 

Thị trấn ngắt mạch khỏi cơn đua đòi vật chất khốc liệt đang bóp nghẹt Siem Reap, Cần Thơ, Chiang Mai hay bất cứ xứ sở nào khác đang quá hăm hở trước tiện nghi và đổi thay.

Nhiều ngày ở Luang Prabang, tôi tự hỏi mình đang ở quãng nào của một Đông Dương từng xuất hiện rất nhiều trong văn học phương Tây? Một Đông Dương mơ màng? Cũ nát? Hết thời? Hay đơn giản là… chỉ muốn nằm yên trong giấc ngủ lành mát rượi?

Khải Đơn
.
.