Hành trình và tầm cao của núi

Thứ Tư, 10/05/2017, 07:16
Ánh trăng soi trên những trái quýt chín vàng, phía sau cổng phụ chùa Hoa Yên mờ khói sương. Một đêm, gõ cửa hỏi thăm sư cụ trong chùa, chú tiểu chắp tay thưa lại với tôi: "Tháng trước vào tuần sương giáng, Người đã đi bộ về núi xa, không thấy hẹn cữ nào trở lại!".

Sư cụ chùa Hoa Yên mà tôi quen gọi bằng Thầy thường đi bộ một mình qua những dãy núi Đông Bắc, sang đến tận Vân Nam (Trung Quốc), rồi lại trở về. Chuyến cuối cùng cách đây đã hơn 50 năm, Thầy tôi không trở lại.

Tôi không biết vì lẽ gì mà Thầy tôi thường phải đi bộ một mình về núi xa? Nhớ lại một đêm trăng, dưới chân Tháp Độ Nhân phía sau chùa, Thầy tôi nói: "Đời người ai cũng có những đỉnh núi xa ở cõi lòng mà suốt đời hướng tới. Kết thúc đời sống, nghĩ cho cùng cũng chỉ là một lần đi bộ về núi xa thôi con ạ!".

Mùa Hè năm 1950, Sơn Tùng được nghe cụ Cả Khiêm, anh ruột Bác Hồ kể: "Quãng năm 1895, hai anh em Bác Hồ, thuở ấy còn mang tên Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung, theo bố mẹ đi bộ từ Nam Đàn vào kinh đô Huế, cứ dọc đường cái quan mà đi, mỗi người mang một đôi dép mo cau, lúc nào rách lại thay đôi khác".

Ông Sắc cõng Sinh Cung rảo bước. Bà Loan gồng gánh đồ đoàn, dắt tay Sinh Khiêm cặm cụi theo sau. Chú bé Sinh Cung 5 tuổi được cha cõng trên lưng, thấy Hoành Sơn có con đường mòn đất đỏ vắt qua đẹp quá, reo lên thành thơ: "Núi cõng con đường mòn/ Cha thì cõng theo con/ Núi nằm ì một chỗ/ Cha đi cúi lom khom/ Đường bám lì lưng núi/ Con tập chạy lon ton/ Cha siêng hơn hòn núi/ Con đường lười hơn con!".

Bài thơ được cụ Cả Khiêm chép lại trong tập Tất Đạt tự ngôn. Năm 1950, cụ đem cho nhà văn Sơn Tùng vài tháng trước khi cụ mất.

Sau 6 năm ở Huế, tháng 2-1901, mẹ qua đời, hai anh em lại theo cha đi bộ về Kim Liên, Nam Đàn. Đường xuyên Việt những năm đầu thế kỷ xuyên qua truông rậm, núi cao. Chiều tối đến những chặng đường hoang vắng, thú dữ rình người.

Tháng 6-1906, ba cha con lại đi bộ từ Nam Đàn vào Huế lần nữa, đường xa đến vài trăm cây số, đi bộ mãi thành quen, cũng trở nên gần, người đi không còn thấy ngại!

Năm 1908, Bác Hồ lúc này mang tên Nguyễn Tất Thành, bị buộc phải thôi học ở Trường Quốc học Huế, vì đã tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân. Tháng 7-1909, để tránh bị chính quyền theo dõi, Nguyễn Tất Thành đi bộ về phương Nam, tới Sài Gòn, hy vọng tìm đường ra nước ngoài.

Từ Huế đến Bình Khê tỉnh Bình Định, nơi ông Phó bảng Sắc làm tri huyện, khoảng 300 cây số, Tất Thành ghé thăm cha, rồi lại đi tiếp vào Phan Rang, giữa lúc cơn bão lớn ngoài khơi tràn vào Cảng. 

Sau này, khi làm phim về đất nước, tôi nhiều lần đi dọc miền Trung. Phong cảnh khiến tôi mường tượng thấy hình bóng của Bác cặm cụi đi giữa con đường vượt qua những đỉnh đèo cao. 

Tháng 7, vào mùa nắng dữ, các bụi tre gai bên đường vào Phan Rang hàng trăm cây số hoang dã, khô cháy một màu chết chóc, không một bóng người. Toàn thân chết khát, hai bàn chân bỏng rộp, lê bước trên đường, 19 tuổi, Người một mình đi bộ đến được Sài Gòn!

Đầu năm 1990, ở Trung Quốc, tôi từ Nam Ninh về Tĩnh Tây, với ý định thăm nơi Bác ở và hoạt động cách mạng quãng năm 1942, khởi đầu cho chuyến đi bộ gian nan cực khổ nhất trong đời hoạt động của Bác, chuyến đi Nhật ký trong tù. Tĩnh Tây là huyện (gồm 11 trấn, 8 hương) trong thành phố cấp địa khu Bách Sắc của khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc.

Ô tô chạy suốt đêm, đường dài thăm thẳm, đồi núi trập trùng. Chòm xóm dưới thung xa, thấp thoáng ánh đèn như ánh sao mờ. Uống trà ở quán trà nhỏ tên thơ mộng "Lô Sơn vân vụ" (Sương mờ trên đỉnh Lô Sơn). Tôi bước vào xóm Pà Mông - xóm nhỏ xưa cũ, cây cầu gạch cổ bắc qua con suối nhỏ cạn trơ sỏi đá. Nắng vàng hiu hắt trên những mái ngói cũ rêu xanh.

Ngồi trò chuyện với bà con trong xóm sang chơi nhà cụ Từ Vĩ Tam, anh em kết nghĩa với cụ Hồ từ năm 1940. Cụ ông đã qua đời, chỉ còn cụ bà tuổi ngoài 80. Nhắc tới cụ Hồ, cụ bà vừa khóc, vừa lấy vạt áo bông xanh lau nước mắt. Cụ Hoàng Tài Hán, hàng xóm của cụ Tam dẫn tôi đi thăm núi Phong Nham. Trên núi, có hang Thông Phong xuyên qua núi, sương khói mờ ảo, ẩn hiện mấy bài thơ viết trên vách đá.

Cụ Hán trân trọng nói với tôi: "Đó là bài thơ của cụ Hồ. Cụ ở trong hang với tôi hồi năm 1941". Độ ấy, cụ Hán sinh nhai bằng nghề nấu rượu. Cụ Hồ thường giúp cụ Hán nhóm lửa, nếm rượu. Hai cụ ngồi canh nồi rượu, rù rì trò chuyện suốt đêm, cùng lắng nghe gà gáy vọng lên dưới xóm Pà Mông mịt mùng.

Tôi lấy làm tiếc không ghi lại được bài thơ Bác viết trên vách đá, ánh sáng mập mờ, chỉ đọc được bốn chữ: "Ẩn cư hoạt lộ" (ở ẩn để tìm đường hoạt động). Mong ước dịp nào đó, trở lại đây với máy quay phim, ghi lại thơ của Bác.

Làm phim về Hồ Chí Minh là kỉ niệm lớn, dấu ấn nổi trội trong sự nghiệp của tôi, đó không chỉ là một lãnh tụ, danh nhân văn hoá thế giới, một nghệ sĩ, mà còn là người bộ hành vĩ đại. Trong chùm phim được giải thưởng Nhà nước năm 2007 của tôi, có Truyền kỳ (3 tập: Hình bóng tổ tiên, Truyền kỳ sự thật, Hồ Chí Minh - Hình ảnh của Người).

Nhưng bộ phim tầm vóc mà tôi rất tâm đắc là Hồ Chí Minh với Trung Quốc (71 phút). Phim này tôi là biên kịch và Thanh An đồng đạo diễn, Đặng Nhật Minh là giám đốc sản xuất, quay phim Hoàng Tấn Phát - Quốc Thành. Nhóm NSND này nay chỉ còn tôi ở Hải Phòng, Đặng Nhật Minh ở Hà Nội, và cơ hội hợp tác duy nhất trong đời chỉ có nhờ duyên với Bác.

Tôi đã 3 lần sang Trung Quốc, ngoài làm phim về Bác, còn thực hiện các phim lịch sử: Ngọn gió Lam Sơn, Chiếu dời đô. Đoàn làm phim về Bác Hồ đến hầu hết những nơi Bác từng hoạt động, đến cả Thuý Hồ - nơi Hồ Chí Minh gặp Võ Nguyên Giáp, Tây Hồ - nơi Phạm Lãi lang thang cùng Tây Thi.

Tôi đã thăm nhà văn Ba Kim lúc ông rất già yếu, mê cuốn Tuỳ tưởng lục của ông, gặp Giả Bình Ao ở Tây An. Không cuộc gặp nào khiến tôi xúc động như được "gặp" Bác trên nhiều địa danh Trung Hoa rộng lớn. Cảm hứng viết bài này là nỗi xúc động khi nhớ hành trình theo hành trình của Bác. Đặc biệt là từ tiểu sử về quãng đời bôn ba cách mạng của Người.

Hạ tuần tháng 8-1942, cụ Hồ từ Pác Bó sang Tĩnh Tây, dừng chân ở Pà Mông, nhờ một người anh em trong xóm là Dương Thao dẫn đường đi Trùng Khánh tìm gặp Chu Ân Lai và phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Không may, đi đến chợ Túc Vinh, huyện Đức Bảo, hai thầy trò bị bọn hương dũng Quốc dân Đảng bắt giam. 

Từ nhà giam chuyên khu Tĩnh Tây, ngày 29-8-1942, cụ Hồ bị áp giải qua các huyện và thành phố: Điền Đông, Thiên Đằng, Long An, Ung Ninh, Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Liễu Châu, Quế Lâm...

Trải qua mười mấy nhà giam, đến ngày 10-9-1943, mới được trả tự do ở Liễu Châu, tính ra vừa hết 1 năm 12  ngày. Đây là chuyến đi bộ cực khổ tột cùng. Đường dài sỏi đá gập ghềnh, vượt qua núi cao vực thẳm. Mùa Hè, những cánh đồng khô cháy, nắng như đội lửa; mùa Đông gió cắt thịt da, đường sá mênh mang không một bóng người.

Chỉ có người tù và toán lính áp giải lê bước trên đường: "Dạ như hắc ám dĩ đăng trình/ Lộ hựu khi khu thậm bất bình" (Còn tối như bưng đã phải đi/ Đường đi khúc khuỷu lại gồ ghề); "Nhật hành ngũ thập tam công lý/ Thấp tận y quan phá tận hài" (Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa, rách hết giày). 

Bụng đói, cật rét, tay bị trói, cổ bị xiềng, run rẩy suốt lộ trình dằng dặc như thế, dù là người thép cũng không chịu nổi! Vậy mà Người đã vượt qua để rồi bao nhiêu gian lao, khổ hận, núi thẳm, non cao cuối cùng chỉ còn đọng lại trong một tứ thơ, một tư tưởng Hồ Chí Minh thanh thản, tận cùng:

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan/Tùng sơn chi ngoại hựu trùng sơn/ Trùng sơn đăng đáo cao phong hậu/ Vạn lý dư đồ cố phán gian" (Đi đường mới biết gian nan/ Núi cao rồi lại núi cao trập trùng/ Núi cao lên đến tận cùng/ Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non).

Tháng 10-1944, Bác Hồ qua biên giới Việt - Trung, đi bộ về Pác Bó, Cao Bằng. Đồng chí Dương Đại Lâm được tin báo chạy ra đón Bác ở chợ Cọt Mà, bàng hoàng nhìn thấy: "Ông cụ người cao gầy, đôi mắt sâu quầng, đầu đội chiếc nón sơn, mặc bộ quần áo đã bạc màu, chân đi hài xảo bằng mo tre, dây cứa đứt cả mu bàn chân, còn gót chân thì loét máu".

Bác yếu nhiều, vừa leo núi vừa thở. Đại Lâm mấy lần xin mang hộ hành lý của Bác, ông cụ gạt đi bảo: "Chú cứ lo lấy cái phần của chú!". Đi từ sáng đến chiều tối về tới Khum Đắc.

Các đồng chí được gần Bác ở Cao Bằng kể lại: "Ở Pác Bó, Bác thường hay đi chơi núi. Núi cao là niềm ham mê của Bác. Con đường mòn lên núi nhiều gai góc, dây leo chằng chịt, đá nhọn chắn đường, lau già trổ cờ trắng bạc ngả sang hai bên lấp mất lối. Bác leo tít lên đỉnh núi cao, có khi lại xuống thật sâu dưới thung lũng. Cả người Bác, cả tâm hồn Bác như hòa vào với núi".

Sau này, suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, Bác vẫn thường đi bộ. Những thước phim tư liệu ghi hình ảnh Bác chống gậy xuyên rừng, lội suối, đôi khi thấy Bác cưỡi ngựa qua đèo hay ngồi trên xe Jeep cũ, lúc Bác đẩy xe, quay "maniven" giúp lái xe khi xe chết máy.

Song thường xuyên chỉ thấy Người đi bộ, dép lốp, gậy tre, mũ cát, khăn mặt vắt vai. Tuổi cao, chân mỏi, lúc nghỉ Bác dùng nước giải tự bóp chân theo cách chữa bệnh của các cụ truyền lại. Chỉ nhờ bài thuốc tự sinh này mà đôi chân dẻo dai đã giúp Bác đi bộ hàng ngàn cây số suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ cho đến ngày Bác cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Hà Nội.

Những năm cuối đời của Bác, chiến trường miền Nam ngày càng ác liệt. Bác không ngày nào không lo lắng, theo dõi tin tức của chiến sĩ và đồng bào ở trong Nam. Bác yêu cầu khi nào có các đoàn ở trong Nam ra, phải báo cáo ngay cho Bác để Bác gặp. Nay xem lại phim tư liệu ghi rõ những cuộc gặp của Bác với cán bộ và chiến sĩ miền Nam, càng thêm thương Bác!

Lần nào Bác cũng hỏi thăm cặn kẽ đường đi vào Nam như thế nào, dọc Trường Sơn phải qua những đâu?... Trong lòng Bác phải tha thiết một ước mong đi bộ dọc Trường Sơn vào Nam thăm đồng bào, chiến sĩ. Bác chính thức nêu vấn đề này với Bộ Chính trị và đề nghị tổ chức cho Bác một chuyến đi. Bác hăng hái chuẩn bị.

Biết mình sức khỏe đã yếu, hằng ngày Bác cùng với ông Tam, bảo vệ của Bác, đồng hương, nay đã qua đời, hai bác cháu đeo ba lô, tập đi bộ trong khu vườn cây rộng lớn của Phủ Chủ tịch. Bác không đi theo lối quen thuộc mà tự vạch ra đường đi riêng, xuyên qua cả bụi cây rậm trong vườn.

Bác nói với ông Tam: "Chú muốn vượt Trường Sơn với Bác thì phải biết vạch đường mà đi". Tháng 8-1969, Bác nằm giường bệnh, biết mình không thể tiếp tục đi bộ được nữa rồi! Lòng Bác vẫn không nguôi nhớ về miền Nam, nhớ những rặng núi xa...

Tôi nhớ một hôm sớm mùa Đông, đứng với Thầy tôi trên chùa Đồng Yên Tử, ngắm những đỉnh non cao rực rỡ triệu tia nắng vàng, xung quanh tôi quấn mảng mây trắng xốp, bồng bềnh lúc nổi lên cao, lúc là đà xuống thấp.

Một hồi chuông dưới chùa Vân Tiêu bất chợt vọng lên, dội vào vách núi. Thoáng chốc, mây ùn ùn kéo đến, đỉnh núi cao sáng rực lặng lẽ chìm sau mây trắng. Thầy tôi nói với tôi: "Núi là niềm ngưỡng mộ của con người, vì Núi chứa đựng những điều bí ẩn. Mà con có thấy không, Núi Lớn đang chìm trong mây... Bởi Núi cũng không muốn người đời thấy mình là Núi".

Đào Trọng Khánh
.
.