Tăng trưởng kinh tế khiến ngôn ngữ bị bào mòn?

Chủ Nhật, 18/04/2021, 13:34
Ngôn ngữ về bản chất luôn sống động và biến đổi. Không có thứ ngôn ngữ nhất quán và bất biến. Chiều hướng vận động của ngôn ngữ phụ thuộc nhiều vào phương thức và mục đích giao tiếp, tức là khi cấu trúc xã hội thay đổi thì ngôn ngữ sẽ thay đổi.

Việt Nam đã chứng kiến một cuộc đổi thay từ cấu trúc xã hội dẫn đến biến chuyển ngôn ngữ vào cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20: cuộc hợp nhất giữa ngôn ngữ giàu tính thơ ca của Á Đông với tính lý trí của ngôn ngữ hệ Latin đã dẫn đến sự xuất hiện của những từ ngữ mới, lối nói mới, văn chương mới… trong một bầu không khí cảm hứng và biểu đạt cảm xúc hoàn toàn khác. 

Để biểu hiện rõ nét cho sự chuyển đổi này, xin nhắc lại đôi lời phát ngôn đầy cảm hứng của nhà phê bình văn học Hoài Thanh về sự chuyển đổi trong văn phong: “Họ bắt đầu viết quốc ngữ, một thứ chữ mượn của người phương Tây. Câu văn của họ cũng bắt đầu có cái rõ ràng, cái sáng sủa của văn tây”; và cả trong tư tưởng cũng như tư duy: “Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu, ghét, giận hờn nhất nhất như ngày trước”.

Thế kỷ 21, Việt Nam cũng nằm trong một cuộc chuyển đổi lớn: xã hội biến chuyển thành thị trường, giao tiếp thông qua phương tiện số chen giữa đời sống tương tác giữa người và người, áp lực về sự thành đạt được đặt cao hơn những giao cảm tâm hồn và nguyên tắc đạo đức… 

Sự chuyển đổi này đòi hỏi ngôn ngữ phải trở nên đại chúng hơn, dễ sử dụng hơn, thậm chí là giản tiện hơn. Ví dụ, cùng sự diễn tả cho cảm xúc buồn bã, người trung đại ưa thích từ “sầu muộn”, tác giả thế kỷ 20 sử dụng linh hoạt cả từ “buồn” và “sầu muộn”, “rầu rĩ”… còn lối nói của người đương đại chỉ đơn giản là “buồn”. Bởi vì từ “buồn” ngắn gọn hơn, giản tiện hơn. Những lối chơi chữ vẫn tồn tại trong giao tiếp đương đại, ví dụ như người ta có thể nói vui là “buồn như con chuồn chuồn” hay “chán như con gián”. 

Cách chơi chữ này không nhằm diễn tả đa chiều hơn trạng thái đề cập đến, mà chủ yếu nhằm mục đích giảm nhẹ tình trạng ấy, hoặc nhằm mục đích giải trí thông qua giễu nhại. Thủ pháp gieo vần hoặc nói lái… mặc dù dễ khiến người nói cảm thấy thú vị nhưng ngoài tác dụng giải trí, chúng không làm gia tăng vốn từ hay năng lực vận dụng ngôn ngữ đa dạng để biểu hiện suy nghĩ cũng như cảm xúc cá nhân.

Ảnh: L.G

Trang Sciencemag, năm 2014 cho biết, các nhà nghiên cứu trong nhóm của nhà động vật học Tatsuya Amano thông qua phương pháp thống kê dữ liệu đã chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế hay chính xác hơn là mong muốn tăng trưởng nóng là nguyên nhân dẫn đến sự chết mòn của ngôn ngữ. 

Với nhu cầu tăng trưởng nóng, người dân mà giờ đây đóng vai trò như những nhân công lao động khao khát có bậc lương cao hơn đã chọn cách sử dụng tiếng Việt ở mức độ giản tiện để rồi đầu tư phần lớn công sức cho học các ngoại ngữ mà trong tương lai chắc chắn sẽ trở thành “cần câu cơm” hữu ích. 

Toàn bộ quá trình này khiến thứ ngôn ngữ chúng ta thường xuyên sử dụng để giao tiếp, tiếp xúc, trải nghiệm trở nên đơn giản tối đa. Những từ vựng phức tạp, trước hết là bị loại bỏ khỏi sự giao tiếp, sau đó là loại bỏ dần khỏi văn bản báo chí, rồi biến mất dần trong văn chương.

Đây là sự đứt gãy văn hóa lần thứ hai. Lần thứ nhất đã diễn ra dần dần trong suốt thế kỷ 20 khi chữ Quốc ngữ trở nên phổ cập và chữ Nho lui về dĩ vãng chỉ còn in bóng trong hình ảnh “những người muôn năm cũ/ hồn ở đâu bây giờ”. Số lượng những người vừa thông thạo chữ Nho, vừa thông thạo tiếng Pháp và giỏi chữ Quốc ngữ ngày càng thưa dần trong suốt thế kỷ 20, thay thế dần bằng các cây bút chỉ thông thạo quốc văn và biết đôi chút Pháp ngữ, sau đó là chỉ tiếng Việt phổ thông.

Sự đứt gãy này đã tạo ra khó khăn không hề nhỏ khi nghiên cứu, tiếp cận và thưởng thức các tác phẩm văn chương trung đại. Khi bước sang thế kỷ 21, với sự giản tiện trong ngôn ngữ, tiếng Việt phổ thông vẫn từng bước tự loại trừ các ngôn từ hoặc lối nói phức tạp hơn so với nhu cầu giao tiếp, mà cụ thể ở đây là sự đa dạng trong ngôn ngữ sẽ bị thay thế bằng nhu cầu “dễ hiểu” trong mọi diễn ngôn. Và khi chúng ta đã quá quen với sự “dễ hiểu” thì chúng ta sẽ không có động lực để tiếp cận với những văn bản hoặc tình huống giao tiếp “khó hiểu”. 

Điều này tạo nên sự phân cực mạnh mẽ giữa hàn lâm và đại chúng, nơi thế giới đại chúng không có nhu cầu hiểu các ngôn từ “bị” cho là “hàn lâm”, và nhóm thiểu số những người có đủ tri thức để hiểu các văn bản xa lạ với đại chúng thì lại chẳng hề quan tâm đến đại chúng. Nếu sự đứt gãy văn hóa ở đầu thế kỷ 20 là sự đứt gãy về thời gian, thì sự đứt gãy văn hóa trong đầu thế kỷ 21 là sự rạn nứt trong tâm thức xã hội: một phía thuộc thiên hướng cộng đồng, một phía ngả hẳn về thị trường.

Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường ru những câu như thế này: “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh/Ai lên xứ Lạng cùng anh/Bõ công bác mẹ sinh thành ra em/Tay cầm bầu rượu nắm nem/Mảng vui quên hết lời em dặn dò/Gánh vàng đi đổ sông Ngô/Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương”. 

Một loạt những từ ngữ và điển cố đã không còn thông dụng và dễ hiểu, bao gồm: “bác mẹ”, “mảng vui”, “sông Ngô – sông Thương”. Trong quá trình tôi học nói, mẹ tôi sẽ dần dần giải thích ngữ nghĩa khi tôi thắc mắc, và toàn bộ các từ vựng ấy trở thành một phần của hệ thống ngôn ngữ đi sâu vào tiềm thức của tôi. 

Khi lớn lên, nhìn vào các cuốn sách, tôi cảm thấy khá ngạc nhiên khi ai đó cần phải có chú thích cho mỗi từ vựng này, và khi nói chuyện với bạn bè mình, tôi nhận ra đa phần trong số họ không hề hiểu nghĩa của chúng. Khi tôi đóng vai trò như người mẹ, tôi đã mua những đĩa nhạc hát ru cho con gái tôi nghe, nhưng những ngôn từ trong lời ru phát qua đĩa CD lặp đi lặp lại ấy không tạo nên bất cứ cảm giác gì cho đứa trẻ. Và tôi có theo dõi những đứa trẻ khác chỉ học nói qua ngôn ngữ giao tiếp, không tiếp xúc bất cứ chút nào với lời ru, thì vốn từ vựng của của em bé ấy lại càng ít hơn. 

Con gái tôi khi tiếp xúc với khúc ru mà tôi đã được nghe mẹ tôi ru hồi nhỏ, không hề có nhu cầu hiểu và không có bất cứ sự gắn kết nào. Thay vào đó, con gái tôi sẽ dễ thấy thích thú với các bài vè với hình ảnh đơn giản và quen thuộc với đời sống, ví dụ như: “Con gà cục tác lá chanh/Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi/Con chó khóc đứng khóc ngồi/Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”.

Nếu như trước đây các văn bản luôn đòi hỏi sự sáng tạo trong dùng từ, hạn chế sự lặp đi lặp lại các từ khóa bằng cách biến tấu nhiều lối diễn đạt khác nhau, thì trong các văn bản trên Internet hiện nay, sự lặp đi lặp lại từ khóa lại trở nên tối quan trọng để đáp ứng các nhu cầu kỹ thuật, và tất yếu các độc giả trẻ không còn trải nghiệm lối diễn đạt phức tạp mà thay bằng đọc nhanh để lấy thông tin. 

Khi nhu cầu đọc nhanh – mà bản chất là lấy thông tin nhanh trở thành thói quen phù hợp hoàn toàn với lối sống phục vụ mục đích trở thành người thành đạt, thì ngôn ngữ phức tạp trở thành lực cản. Dần dần, họ bỏ qua thơ, bỏ qua các hình thức văn chương duy mỹ, bỏ qua những văn bản đòi hỏi phải tìm tòi thêm kiến thức để hiểu. 

Không lạ khi một bạn trẻ hoang mang trước những từ Hán Việt kỳ dị trong thơ Đinh Hùng, hay cười nhạo câu Kiều nổi tiếng “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” chỉ bởi vì họ không hề được trang bị những lớp ngôn ngữ phức tạp cả nội hàm và biểu hiện đủ để hiểu.

Ảnh: L.G

Sẽ thật bế tắc khi chúng ta nỗ lực nâng cao văn hóa đọc mà lại không mở lối cho độc giả trẻ bằng cách tạo ra những môi trường ngôn ngữ đầy cảm hứng, để khôi phục dần dần các khuyết thiếu trong đời sống ngôn ngữ giản tiện ngày nay. 

Chúng ta có nhiều tiệm sách, có nhiều buổi thảo luận học thuật, có nhiều ý tưởng để nâng cao vốn tiếng Việt của học sinh… nhưng chúng ta quên mất rằng ngôn ngữ là một phần của đời sống, và nếu xã hội có quá ít khoảng không cho sự phát triển của tinh thần thì ngôn ngữ theo đó cũng sẽ bị bào mòn.

Con người trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, không chỉ chạy theo ước ao thành đạt để sinh tồn ở bậc cao trong tháp phát triển của xã hội, con người còn cần nuôi dưỡng tâm hồn và nếu ngôn ngữ không phải là công cụ để gắn kết tâm hồn với tâm hồn thì ngôn ngữ sẽ trở thành vật cản gây chia rẽ. Khi ấy, con người sẽ trở nên dễ bị kích động hơn, dễ sa đà vào những lời dẫn dụ thiếu căn cứ và đó là mầm mống của các mâu thuẫn xã hội.

Hà Thủy Nguyên
.
.