Ai đã đẩy lưng Gorbachev lên nắm quyền lực?

Thứ Năm, 18/08/2011, 15:19
Trong lịch sử nước Nga thời hiện đại, cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Tổng thống đầu tiên và cũng là cuối cùng của Liên bang Xôviết Mikhail Gorbachev là nhân vật cho tới ngày hôm nay vẫn khơi gợi nên nhiều câu hỏi nhất.

Có quá nhiều điều bí ẩn và khó giải thích xung quanh việc ông ta tiến tới vị trí số một trong bộ máy quyền lực ở Liên Xô. Ai đã giúp Gorbachev loại bỏ các đối thủ nặng ký tương đương và thậm chí đã có nhiều ưu thế hơn ông ta?

Tại sao Gorbachev lại giành được thắng lợi tại cuộc họp Bộ Chính trị tháng 3/1985 mang tính định mệnh đối với Liên bang Xôviết để rồi trở thành Tổng Bí thư? Những tư liệu sau đây được tổng hợp từ các nguồn thông tin từng là tối mật ở Liên Xô, nhằm cung cấp cho bạn những thông  tin gợi mở suy ngẫm.

“Gót chân Asin” của chế độ Xôviết

Triết gia A. Zinoviov và cũng là một nhân vật bất đồng chính kiến khét tiếng người Nga kể rằng, năm 1979, trong một buổi diễn thuyết ở nước ngoài, khi nhận được câu hỏi rằng “đâu là gót chân Asin” của chế độ Xôviết, ông đã nửa đùa nửa thật trả lời là, đó là vị trí cao nhất trong bộ máy quyền lực và nếu phương Tây  đặt được “người đằng mình” vào vị trí đó thì coi như nhiệm vụ đã được hoàn tất vì phản ứng dây chuyền từ trên xuống dưới đã được châm ngòi... Trong khán phòng đã rộ lên tiếng cười hài hước khi nghe câu trả lời này…

Gorbachev và Tổng thống Mỹ Reagan: Khi đối thủ cười tươi với ta, tức là ta sắp đổ.

Thế nhưng, rồi chuyện nói đùa đó về sau lại thành sự thật. Cũng theo lời kể của Zinoviov, sau đó, ông này từng có một cuộc trò chuyện với một nhân viên của Cơ quan Tình báo Anh SIS và người ấy đã tuyên bố: “Chẳng bao lâu nữa chúng tôi (tức là phương Tây) sẽ đặt được người của mình lên vị trí số 1 ở Liên Xô”. Không nhắc cụ thể tới tên họ Gorbachev, nhưng ông Zinoviov đã kết luận rằng, lời báo trước đó về sau đã trở thành sự thật…

Tất nhiên, không có bằng cớ gì chắc chắn về quan hệ giữa ông Gorbachev với Cơ quan Tình báo Anh. Cũng không có bằng cớ chắc chắn về quan hệ của Gorbachev với Cơ quan tình báo Mỹ CIA hay với hội Tam Điểm.

Tuy nhiên, theo lời của V. Legosstayev, cựu trợ lý của Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô Egor Ligachev, trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, khi quê hương bị quân phát xít Đức chiếm đóng, cậu bé Misha Gorbachev dường như đã viết một tờ giấy cam kết hợp tác với kẻ thù và tờ giấy đó về sau đã rơi vào tay các cơ quan tình báo phương Tây và họ dùng đó để làm công cụ hù dọa ông Gorbachev… Của đáng tội, cũng không có “vật chứng” chắc chắn để khẳng định giả thuyết này…

Nhiều nhà nghiên cứu đã dày công tìm hiểu các mối quan hệ của ông Gorbachev với những người nước ngoài để lý giải các thay đổi về mặt tư tưởng và lý tưởng của chính trị gia này khi đã ở trên đỉnh cao quyền lực. Và họ đã tìm được khá nhiều dấu vết lạ theo chủ đề “Gorbachev và phương Tây”.

Thí dụ như, trong những năm Mikhail Gorbachev học ở Khoa Triết Trường Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva mang tên Lomonosov (MGU), ở đây đã không chỉ có các sinh viên Xôviết mà còn có cả các sinh viên tới từ những nước khác. Năm 1953, chỉ riêng tại Khoa Triết đã có tới vài chục sinh viên người nước ngoài. Một trong số họ là Zdenek Mlynar (22/6/1930 – 15/4/1997), người Czech. Anh sinh viên Nga Misha đã không chỉ biết mà còn kết thân với Mlynar.

Ấy vậy mà mối quan hệ giữa hai người ở thời đại học cũng như ở những năm sau này cho tới nay vẫn ít được quan tâm phân tích. Càng ít được để ý hơn là mối quan hệ giữa sinh viên Gorbachev với các sinh viên người nước ngoài khác từng học ở MGU trong những năm từ 1950 đến 1955. A.S. Grachev, một tác giả chuyên viết tiểu sử của Gorbachev, khẳng định rằng, từ năm 1955 tới năm 1985, Gorbachev và Mlynar không hề duy trì quan hệ với nhau và trong suốt ba thập niên đó, họ chỉ gặp nhau có một lần năm 1967 và cũng rất tình cờ.

Thế nhưng, cũng chính tác giả Grachev đã dẫn lời của Gorbachev  nói với mình có lẽ là vào năm 1994 khi trả lời phỏng vấn báo Komsomolskaya Pravda rằng: “Zdenek đã là người bạn gần gũi nhất đối với tôi, gần gụi hơn bất cứ ai trong số bạn bè đằng mình”.

Chẳng  lẽ đã từng thân thiết như thế  mà hai người sau đại học lại không thư từ trao đổi với nhau? Và đây là lời thổ lộ của chính Gorbachev năm 2002: “Tôi từng có anh bạn Zdenek Mlynar.  Chúng tôi đã thân thiết với nhau cho tới khi anh ấy mất”.

Điều này cho phép phỏng đoán rằng, sau năm 1955, Gorbachev và Mlynar vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với nhau nhưng không để lộ ra ngoài điều này.

Cùng giơ tay nhưng mỗi người nghĩ một ý.

Để hiểu được vì sao họ lại làm như thế, cần phải biết rằng, sau khi tốt nghiệp MGU, từ năm 1955 tới năm 1963, Zdevek Mlynar đã làm việc tại Viện Nhà nước và Pháp luật của  Tiệp Khắc, rồi từ năm 1963 tới năm 1967, đã làm Thư ký Ủy ban Pháp luật của BCH TW Đảng Cộng sản Tiệp Khắc.

Từ năm 1968, Zdenek  Mlynar là Bí thư và thành viên  Đoàn Chủ tịch BCH TW Đảng Cộng sản Tiệp Khắc và là một trong những thủ lĩnh của sự kiện chính trị phức tạp mang tên “Mùa xuân Praha” năm 1968. Cũng vì thế mà Z. Mlynar đã bị cho về hưu và năm 1970, bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc.  Năm 1977, Mlynar đã ký tên vào Tuyên bố 77 nên buộc phải sang thủ đô Vienna sống lưu vong.

Khi Mikhail Gorbachev trở thành Tổng Bí thư, ông ta ngay lập tức đã mời Mlynar sang Moskva nhưng chỉ gặp ông này một cách kín đáo…

Xem xét chủ đề “Gorbachev và phương Tây”, cũng cần chú ý đến việc tham gia của Gorbachev vào Liên hoan thanh niên thế giới ở Moskva năm 1961. Khi đó, theo nhiệm vụ được BCH TW Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin (và có thể không chỉ riêng của cơ quan này), Gorbachev được phân công đi theo đoàn thanh niên Italia. Chính từ đây mới xuất hiện những mối quan hệ của ông ta với những người đảng viên cộng sản Italia, tức là với phong trào mà về sau được đặt tên là “chủ nghĩa cộng sản châu Âu”.

Năm 1966, Gorbachev lần đầu tiên được đi công tác ở nước ngoài, sang CHDC Đức. Tháng 9/1969, ông ta được mời dự lễ ở Bulgaria, và tháng 11 năm đó, đi công tác sang Tiệp Khắc. Năm 1971, tại Italia đã diễn ra cuộc gặp gỡ làm quen đầu tiên của Gorbachev với “thế giới tư bản chủ nghĩa”, rồi sau đó ông ta đã sang Pháp, Bỉ, CHLB Đức.

Mikhail Gorbachev cũng có những cuộc tiếp xúc với những người nước ngoài sang làm việc ở khu Stavropol. Chủ yếu đó là những nhà lãnh đạo Đảng và chính quyền của các nước hữu nghị vùng Trung Âu. Cũng ở Stavropol, Gorbachev đã bắt đầu tiếp xúc với đại diện “các nước tư bản chủ nghĩa” tới thăm địa phương này trong các chuyến làm ăn.

Cụ thể, với đại diện Công ty John Brown của Anh. Công ty Đức Linde và Công ty Mỹ Union Carbide, tham gia thiết kế và xây dựng nhà máy hóa chất ở đây, cũng như ngân hàng Anh  Morgan Grenfell, cung cấp kinh phí cho dự án này.

Các mối quan hệ quốc tế của Gorbachev được mở rộng sau khi ông ta trở thành Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Vì ông ta được phân công phụ trách nông nghiệp nên ông ta đã phải liên quan tới việc nhập khẩu lúa mì, việc trong thời điểm đó đã có ý nghĩa  rất quan trọng đối với Liên Xô…--PageBreak--

“CIA đã biết nhiều về ông ta”

Dường như các cơ quan tình báo phương Tây đã để ý tới Gorbachev từ trước khi ông ta chuyển về Moskva. Cựu Giám đốc CIA Robert Michael Gates trong tập hồi ký Thoát khỏi bóng tối đã viết: “CIA đã rất thích thú đón nhận sự xuất hiện của Gorbachev đầu năm 1983 như một nhân vật được Andropov (lãnh đạo KGB, về sau trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô) bảo trợ”. Tại sao lại thích thú? Gates thú nhận: “Chúng tôi đã biết rất nhiều điều về ông này rồi”…

Không có gì lạ trong việc CIA sưu tập tài liệu về các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô. Quả là lạ nếu như CIA lại không làm việc này. Một cựu nhân viên Nhà Trắng, John Poindexter trong cuộc trò chuyện với nhà báo Peter Schveizer (tác giả cuốn sách Chiến thắng viết về chiến lược do Tổng thống Mỹ Ronald Reagan cùng William Casey, Giám đốc CIA  trong giai đoạn từ 1981 tới 1987) đã khẳng định: “Chúng tôi có rất nhiều thông tin chuẩn xác về Liên Xô, đặc biệt là về Bộ Chính trị và các nhà lãnh đạo”.

Quả thực là, công bố cuốn sách Nghệ thuật tình báo vào giữa những năm 60 của thế kỷ trước, trùm tình báo Mỹ Allen Dulles (Giám đốc CIA trong giai đoạn từ năm 1953 tới năm 1961) đã công nhận: “Các cơ quan tình báo phương Tây (và điều này được những người cộng sản biết rõ) rất chăm chú theo dõi mọi biểu hiện như thế, hơn nữa, còn lưu giữ hồ sơ rất cẩn thận về các thành viên cộng sản mọi cấp và mọi chức, từ trên xuống dưới, và tỉ mỉ ghi chép lại những hành vi và phát biểu, về những sự việc xảy ra trong đời tư và trong đời sống xã hội của họ”.

Có lẽ CIA cũng đã không đủ sức thu thập thông tin về tất cả các bí thư Đảng bộ ở Liên Xô, ngoại trừ ở những cơ quan có vai trò đặc biệt trong xã hội Xôviết. Thí dụ như Đảng bộ trong Văn phòng BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô hay trong Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB).

Cũng ít khả năng CIA quan tâm tới cấp thành ủy hay huyện ủy, nếu hoạt động của các cơ quan này không diễn ra tại các trung tâm lớn như Moskva, Leningrad hay một số đô thị loại một khác… Tuy nhiên, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng trong tầm quan sát của tình báo Mỹ là những Đảng bộ ở cấp tỉnh, khu vực và nước cộng hòa.

Trong tình huống này thì tên họ của Gorbachev đã phải xuất hiện trong kho hồ sơ của CIA không muộn hơn năm 1968, khi ông ta trở thành Bí thư thứ hai Khu ủy Stavropol. Và cũng không muộn hơn thời điểm này CIA đã tập trung dần dà các thông tin về hoạt động Đảng, các bài phát biểu, đời công cũng như đời tư của Gorbachev.

Những thu thập thông tin này nhằm mục đích gì? Allen Dulles đã bỏ ngỏ câu hỏi này trong cuốn sách của mình. Thế nhưng, tìm câu trả lời cho nó thì không phải là việc khó. Thông tin đó cần được thu thập trước hết để phỏng đoán về những nhóm cán bộ khác nhau có thể tồn tại trong nội bộ Đảng và chính quyền Xôviết và dự báo trước những thay đổi có thể diễn ra trong công tác cán bộ.

Thứ hai, để hình dung được cụ thể những nhân sự mà chính quyền Mỹ có thể phải làm việc, tức là để xây dựng các mối quan hệ với phía Xôviết sao cho có lợi nhất cho nước Mỹ. Thứ ba, tận dụng cơ hội có thể có để tuyển mộ “tay trong”  trong đội ngũ cán bộ Xôviết. Và không nhất thiết là để làm gián điệp.

Dần dà lợi dụng

Thiếu tướng A.G. Sidorenko, một cựu lãnh đạo trong bộ máy KGB, nhớ lại: “Tới giữa những năm 60, các cơ quan trong KGB từ các nguồn tin của mình đã được biết rằng, CIA và các cơ quan an ninh tình báo khác của Mỹ đã chuyển hướng sang tìm kiếm cái gọi là những điệp viên gây ảnh hưởng ở Liên Xô…

Và nhiệm vụ đã được đặt ra là làm sao để có được những điệp viên như thế trong tương lai, tới thời điểm X nào đó, có thể được đưa vào làm trong các cơ quan Đảng và nhà nước, vào trong các tổ chức xã hội có uy lực, cũng như trong các lực lượng vũ trang Liên Xô”.

Còn Đại tướng Vladimir Criuskov, hoạt động trong KGB từ năm 1967 và trong giai đoạn từ năm 1988 tới tháng 8/1991 đã là Chủ tịch KGB, cũng từng viết rằng, những “điệp viên gây ảnh hưởng” đã xuất hiện trong hàng ngũ cán bộ Xôviết từ thời ông Nikita Khrusov làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô (từ năm 1953 tới năm 1964)… Thực ra, có lẽ  từ rất lâu rồi tất cả các quốc gia đã đều muốn tuyển mộ các “điệp viên gây ảnh hưởng”  trong nội bộ các đối tác và đối thủ…

Khó có thể biết cụ thể được là, tới năm 1983, CIA đã có trong tay những thông tin gì về Mikhail Gorbachev. Tuy nhiên, xét theo giọng điệu của cựu Giám đốc CIA Gates, những thông tin đó đủ để giúp các cơ quan an ninh tình báo Mỹ tự tin rằng, họ có thể sử dụng Gorbachev vào các mục đích hữu lợi đối với họ.

Vậy những thông tin như thế về Gorbachev đã lọt vào tay CIA từ thời điểm nào?

Giáo sư Archie Brown ở Trường Đại học Oxford, một chuyên gia nghiên cứu về Liên Xô và Đông Âu, đã khẳng định rằng, ngay từ ngày 22-10-1980, khi ông hay tin về việc bầu ông Gorbachev làm Ủy viên BCT BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô, đánh giá đây là một sự kiện “có tầm quan trọng tiềm tàng”.

Đánh giá này có thể được giải thích là, từ năm 1978 tới năm 1980, một Bí thư Khu ủy rất ít người biết tới bỗng nhiên trở thành Bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô rồi lại trở thành Ủy viên Dự khuyết BCT và cuối cùng là Ủy viên BCT.

Thế nhưng, GS Brown đã viết rằng, Mikhail Gorbachev đã từng khiến ông chú ý tới từ năm 1978, khi ông này trở thành  Bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô. GS Brown lại càng chú ý tới ông Gorbachev hơn khi ông này gặp gỡ với cựu Bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Tiệp Khắc  Z. Mlynar.

Cũng phải nói rằng, nếu GS Brown quan tâm tới Mikhail Gorbachev chỉ từ năm 1978, thì nhà ngoại giao Jack Matlock đã biết tới cái họ Gorbachev từ năm 1975. Matlock sinh năm 1929. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp ở Bắc Carolina và năm 1952, đã có bằng thạc sĩ tại Viện Nghiên cứu Nga thuộc  Đại học Columbia.

Gorbachev và Tổng thống Mỹ Reagan: Khi đối thú tươi cười với ta, tức là ta sắp đổ.

Từ năm 1953 tới năm 1956, Matlock dạy tiếng Nga tại Trường Cao đẳng Dartmouth. Sau khi rời khỏi Dartmouth, Matlock đã chuyển sang làm công tác ngoại giao. Năm 1961, lần đầu tiên Matlock đã được cử sang Moskva hai năm trên cương vị Phó Tổng lãnh sự và Bí thư Thứ ba. Trong những năm 60 của thế kỷ trước, Matlock đã làm việc ở châu Phi. Tiếp theo, ông được về Bộ Ngoại giao Mỹ và được giao phụ trách Vụ Liên Xô từ năm 1971 tới năm 1974 rồi lại được đưa sang Moskva công tác trên cương vị Phó Đại sứ.

Sau này, Matlock đã tâm sự trong các hồi ký của mình rằng, ngay từ năm 1961, ông ta đã cố gắng tiếp cận với BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô. Và tới giữa những năm 70, ông ta đã biết tới tên họ Mikhail  Gorbachev như một nhân vật có máu “thử nghiệm” và được hậu thuẫn bởi các bậc đàn anh…

Năm 1975, Matlock đã tới khu Stavropol. Cũng có thể xem đây chỉ là một chuyến đi nghỉ hè. Thế nhưng, đây thực ra lại là một đợt công tác vì chính trong giai đoạn đó, Matlock đã được giao nhiệm vụ “tạm thời phụ trách Đại sứ quán Mỹ ở Moskva”.

Tuy nhiên, ở thời điểm đó, Mikhail Gorbachev đã tránh gặp mặt Matlock một cách chính thức. Theo Matlock viết lại sau này, chỉ tới năm 1985, nhà ngoại giao Mỹ này mới được “quang minh chính đại” tiếp cận với ông Gorbachev.

Tuy nhiên, theo những nguồn tin Nga, ngay từ năm 1975, hiểu rõ rằng những vị đại sứ như Matlock không phải “rỗi hơi” mà tới những địa  phương xa xôi như Stavropov, Gorbachev đã cho tổ chức một cuộc tiếp tân ở cấp không cao lắm để mời Matlock tới. Và chính trong cuộc tiếp tân này, có thể Gorbachev đã có dịp trò chuyện trực tiếp với nhà ngoại giao Mỹ quan trọng này…

Và từ thời điểm đó, Gorbachev đã trở thành đối tượng để phương Tây nói chung và Wasington nói riêng tiếp cận và lợi dụng. Nhiều chi tiết trong những hoạt động đó cho tới nay vẫn  còn nằm trong vòng bí mật….--PageBreak--

Bán đứng Đảng Cộng sản

Thời gian gần đây, nhiều nhà nghiên cứu về lịch sử Liên Xô đã đi tới kết luận rằng, trong quá trình tiến hành công cuộc cải tổ (perestroika), Gorbachev, trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, đã tự “đốt lửa dưới ghế mình ngồi” dẫn tới thủ tiêu vai trò của chính đảng này trong những biến đổi kinh thiên động địa ở siêu cường từng đứng hàng đầu thế giới này.

Đó cũng là ý kiến của GS Gerhard Simon ở Trường Đại học Tổng hợp Keln, người đang được đánh giá như một trong những chuyên gia Đức hàng đầu về nước Nga. Trong bài trả lời phỏng vấn Deutsche Welle mới đây, GS Simon đã khẳng định, chính Mikhail Gorbachev ngay từ trước khi xảy ra chính biến tháng 8/1991 đã loại bỏ vai trò của Đảng Cộng sản Liên Xô trong chính quyền Xôviết.  Mới đây, ông đã viết một chuyên luận về nhà lãnh đạo Xôviết Mikhail Gorbachev và nó sẽ được công bố ở Nga vào cuối năm nay.

Deutsche Welle: Thưa ông Simon, có gì mới trong chuyên luận của ông về Gorbachev?

GS Gerhard Simon: Đọc kỹ lại những tư liệu đã có, tôi đã đi tới kết luận rằng, Gorbachev ngay từ mùa hè năm 1988 đã hành động một cách có hệ thống để loại bỏ bộ máy Đảng khỏi chính quyền. Mục tiêu là các cơ quan ban ngành thuộc Đảng Cộng sản Liên Xô, vốn có một ảnh hưởng quyết định trong quốc gia đại sự như Ban Chấp hành Trung ương, các kỳ Đại hội và trước hết là Bộ Chính trị.

Trước năm 1985, Bộ Chính trị đã là  cơ quan chính thông qua các quyết định ở Liên Xô. Trong Bộ Chính trị, Tổng Bí thư giữ vai trò phối hợp hoạt động của mình với lãnh đạo các ban ngành trong Đảng. Gorbachev đã bắt đầu quá trình đẩy xa các cơ quan này của Đảng ra khỏi chính quyền.

- Bằng cách nào?

- Ý tưởng chính là lập ra một hình thức cầm quyền của tổng thống. Sau này Gorbachev quả thực đã được bầu làm Tổng thống Liên bang Xôviết. Kế hoạch của ông ta là làm sao để quyền lực tập trung trong tay tổng thống và các Xôviết, tức là các cơ quan lập pháp của Liên bang Xôviết. Theo ý đồ của ông ta, Đảng sẽ mất vai trò quyền lực. Đảng có thể tham gia các cuộc bầu cử trên cơ sở có nhiều sự lựa chọn, nhưng vai trò chủ đạo của Đảng sẽ bị loại bỏ.

Quá trình trên đã diễn ra khá nhanh, bắt đầu từ mùa hè năm 1988 và kết thúc vào mùa hè năm 1990, khi diễn ra đại hội cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô ở đó. Khi ấy, đã bầu ra thành phần mới của Bộ Chính trị. Bộ Chính trị mới này chỉ có cái tên chung giống với cơ quan cũ mà nó đã là trong quá khứ. Trong thành phần mới chỉ có những gương mặt hạng hai. Gorbachev vẫn giữ cho mình vai trò chủ tọa nhưng hầu như không làm gì để thực hiện chức phận đó. Việc loại bỏ Bộ Chính trị khỏi chính quyền đã hoàn tất quá trình tước bỏ quyền lực của Đảng Cộng sản. Trong Bộ Chính trị không có những nhân vật chủ chốt như Bộ trưởng Ngoại giao,  Thủ tướng, các nhân vật quyền lực, lãnh đạo KGB… Ở đó chủ yếu là các thủ lĩnh đảng ở các nước cộng hòa Xôviết, mà họ thì chỉ là những nhân vật hạng hai.

- Liệu có thể giải thích vì động cơ gì mà Gorbachev muốn tước bỏ quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô?

- Thoạt tiên có lẽ Gorbachev cũng cho rằng, bộ máy của Đảng có thể và phải là đội ngũ tiền phong của công cuộc cải tổ. Nhưng chẳng bao lâu sau thì lại lộ ra một sự ngược lại: phần lớn bộ máy Đảng đã hành xử một cách thụ động, và tiếp đó, rất tích cực chống lại công cuộc cải tổ. Tức là bộ máy của Đảng cản trở những cải cách của Gorbachev.

- Ông nói rằng, quá trình tước bỏ quyền lực của Bộ Chính trị đã hoàn tất khá nhanh chóng. Thế còn việc gì mà Gorbachev không làm được?

- Việc ông ấy không làm được là chuyển giao quyền lực cho các cơ cấu mới. Tổng thống Liên bang Xôviết và bộ máy của ông ta đã không đủ tầm và lực để thực thi quyền lực mà họ nhận được. Về sau, Gorbachev đã viết trong hồi ký của mình như sau: “Khi tôi trở thành tổng thống, tôi có cảm giác như mình là một ông tướng không quân”.

- Người ta cho rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô đã từng có một quyền lực rất lớn ở Liên Xô. Tại sao Đảng lại để cho mình bị mất quyền lực?

- Vì Gorbachev đã hành động cực kỳ tinh quái. Nhìn bề ngoài thì không thấy có gì thay đổi cả, các cơ cấu vẫn còn nguyên như cũ, nhưng nội dung bên trong đã thay đổi. Trong rất nhiều bài phát biểu công khai của mình, Gorbachev  đã không ngừng khích lệ các viên chức Đảng. Ông ta đã nói rằng, Đảng Cộng sản sẽ và mãi là quan trọng, rồi ông ta kêu gọi các đảng viên tham gia vào các cuộc cải cách. Ông ta nói với họ: cần phải tham gia tranh cử, chỉ cần thuyết phục cử tri bầu cho mình. Gorbachev cũng vẫn tiếp tục nói về cái gọi là vai trò tiền phong của Đảng.

- Và nhiều người yên lòng vì thế?

- Đúng vậy, nhưng không phải tất cả. Những viên chức chủ đạo của Đảng tất nhiên là nhận ra rằng họ đang bị tước bỏ dần quyền lực. Kết quả là Gorbachev đã bị mất uy tín rất mau lẹ trong bộ máy Đảng. Khi ở cùng những người thân cận, ông ta đã buộc phải công nhận rằng, 70% Ủy viên BCH TW Đảng có tâm lý chống lại ông ta. Chính điều đó đã dẫn tới cuộc chính biến tháng 8-1991. Cuộc chính biến này là một cố gắng của những người bị tước bỏ quyền lực quay ngược lại bánh xe lịch sử….

* * *

Theo lời Nguyên soái Dmitri Yazov, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, nói trong biên bản thẩm vấn đăng  trên tạp chí Đức Spiegel số ra ngày 7/10/1991, ở nhiều người Xôviết trong thời điểm đó đã xuất hiện những tình cảm tiêu cực.

Nguyên soái lý giải: “Tôi cho rằng sở dĩ như thế  là bởi vì mức sống của nhân dân tụt xuống, nền kinh tế đổ vỡ, các cuộc đụng độ sắc tộc ngày càng nghiêm trọng hơn, xung đột giữa các nước cộng hòa xuất hiện.... Dần dà trở nên rõ ràng hơn ý nghĩ cho rằng, Gorbachev trong vai trò nhà hoạt động quốc gia tích cực đã dần dà kiệt lực. Ở đâu đấy có cảm giác rằng, ông ta hoặc rất mệt mỏi, hoặc đã đánh mất tiêu chí... Chính sách kinh tế của ông ta thể hiện ở việc ông ta cầu xin tín dụng, vay nợ và làm rất ít cho nền kinh tế.... Bộ máy kinh tế của chúng ta bị hư hỏng hoàn toàn. Mà đất nước lại đang đứng sát bờ vực tan vỡ...”.

Trong cơn rối lẫn trí tuệ của mình, Mikhail Gorbachev có lúc đã dự định “duy trì Liên Xô  trong đường biên giới đã tồn tại khi đó nhưng dưới một cái tên mới phản ánh đúng bản chất những cuộc cải cách dân chủ đang diễn ra” (trích theo bài phát biểu tại trường Đại học Tổng hợp Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ). Ông ta muốn giữ nguyên tên viết tắt CCCP bằng tiếng Nga (tức là Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết) của quốc gia dưới quyền mình lãnh đạo nhưng với nội dung khác là “Liên bang các nước cộng hòa tự do có chủ quyền”.

Thế nhưng, trong thực tế, mọi sự không theo ý muốn của nhà chính trị đang xuống thế này. Cuộc họp mùa hè năm 1991 tại Novo-Ogarevo giữa Tổng thống Gorbachev với thủ lĩnh các nước cộng hòa đã không mang lại điều gì tích cực theo hướng củng cố cơ chế Liên bang.

Boris Yeltsin, sau khi lên nắm được chính quyền ở Cộng hòa liên bang Nga, chủ thể có giá nhất trong thành phần Liên bang Xôviết, đã khôn khéo từng bước một  phối hợp với một số vị Tổng thống ở các nước cộng hòa thành viên Liên Xô khác, dồn ép M. Gorbachev lùi dần từng bước nhằm làm suy yếu và xóa sổ Liên bang.

Theo Vladimir Kriuskov, nguyên Chủ tịch Ủy ban An ninh quốc gia (KGB), chính Yeltsin đã thuyết phục được Gorbachev cho biên soạn dự thảo Hiệp ước liên bang mới bí mật không cho Xôviết tối cao Liên Xô hay Đại hội các đại biểu nhân dân hay biết. Theo dự thảo được hoàn thành vào cuối tháng 7/1991,   mức thuế và số lượng thuế nộp cho ngân sách liên bang chỉ do chính quyền các địa phương quy định.

Thứ hai,  trong tất cả các cơ cấu sức mạnh thì sẽ chỉ có KGB mang quy mô liên bang, còn các lực lượng vũ trang, Bộ Nội vụ cũng như một số chức năng thuộc về lĩnh vực đối ngoại khác, sẽ nằm trong tay chính quyền các nước cộng hòa... Điều này có nghĩa là chính quyền liên bang sẽ không còn công cụ hữu hiệu nào để tiến hành quản lý quốc gia...

Theo thỏa thuận giữa Gorbachev với Eltsin, Hiệp ước Liên bang phải được ký vào ngày 20/8/1991. Tình thế này khiến cho Nguyên soái Yazov cũng như nhiều đảng viên cộng sản Liên Xô đang ở những vị trí cao trong bộ máy liên bang “bỗng hiểu ra rằng, bằng cách đó, sự tan vỡ của Liên bang đã tiến tới sát chỗ chúng ta.

Tất cả đều nói ủng hộ Liên bang Cộng hòa XHCN Xôviết, vậy mà lại đưa ra dự thảo Hiệp ước liên bang trong đó có nói tới các quốc gia có chủ quyền. Chúng tôi đã tin chắc rằng, đây không đơn giản là các sai lầm, mà ở đây đang diễn ra quá trình có định hướng rõ ràng nhằm đạt mục đích không có một liên bang nào cả, mà chỉ có một liên minh các nước cộng hòa có các vị tổng thống riêng”. (Vẫn theo bài theo tạp chí Spiegel)

 Đúng như trí tuệ dân gian Nga từng nhấn mạnh “Đã đâm lao thì chớ bảo là không thuộc hết cả câu tục ngữ”, cách tiến hành công cuộc cải tổ của Gorbachev đã dần dà làm “quá mù ra mưa”, xa rời định hướng ban đầu và Liên bang Xôviết đã tan vỡ. Cũng trong bài phát biểu tại trường Đại học Tổng hợp Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ đã dẫn, Mikhail Gorbachev đổ lỗi cho “tính thèm khát quyền lực của Boris Yeltsin” đã gây nên thảm họa này. 

Tuy nhiên, trách nhiệm cá nhân của Mikhail Gorbachev cũng vẫn là điều không thể chối bỏ. Theo kiểu “tò vò mà nuôi con nhện...”, Mikhail Gorbachev đã tạo ra một nền chính trị và một hình thức xã hội mới mà những người với tư chất, tiểu sử và quan điểm sống như ông ta không bao giờ có thể làm thủ lĩnh...

Vài ngày sau khi chính biến thất bại, Gorbachev từ bỏ chức vụ Tổng Bí thư và kêu gọi BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô tự giải thể. Ngày 29/8/1991, Xôviết Tối cao Liên Xô đã ra lệnh cấm Đảng Cộng sản Liên Xô hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ Xôviết…

Bắt đầu một giai đoạn phát triển hoàn toàn khác trong không gian Xôviết cũ. Và những hệ lụy từ đó cho tới hôm nay vẫn chưa lành sẹo

Nguyễn Trung Tín
.
.